BÀI LÀM
Nam Cao là kiện tướng xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông được coi là người đặt những mảng màu cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh của văn học hiện thực cả về mặt phản ánh xã hội cũng như khả năng biểu hiện nghệ thuật. Dẫu không phải là nhà cách tân truyện ngắn, chỉ là người bồi đắp cho thể loại này, nhưng sự bồi đắp ấy lại vô cùng phong phú. Trước Nam Cao đã có một Vũ Trọng Phụng tả chân sắc sảo, một Nguyễn Công Hoan trào phúng pha chút kịch hề, một Thạch Lam trầm lặng, tinh tế…Nam Cao góp vào thi đàn một phong cách riêng, một giọng điệu riêng không thể nhầm lẫn. Phong cách của ông kết tinh đậm nét trong truyện ngắn “Chí Phèo” – một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ tài nghệ bậc thầy của một nhà văn lớn. Cuộc đời của Chí Phèo – nhân vật chính trong truyện ngắn là một chuỗi bi kịch dai dẳng và đầy đau đớn. Nhưng với niềm tin mãnh liệt vào những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân lương thiện, nhà văn đã dồn hết bút lực để miêu tả quá trình hồi sinh, thức tỉnh của Chí.
Sinh ra và lớn lên tại một vùng đồng chiêm trũng, nghèo khổ, quanh năm “chó ăn đá, gà ăn sỏi” ở Bắc Bộ, hơn ai hết Nam Cao gắn bó và thấu hiểu sâu sắc những cảnh đời lầm than, đau khổ. Cũng chính bởi vậy ông thường viết về đề tài nông thôn bằng tất cả tấm lòng, sự cảm thương của mình. Ở mỗi tác phẩm, Nam Cao lại cho ta thấy những nét đẹp cũng như những phẩm chất sáng ngời của họ. Đó là hình ảnh người bà vất vả, đói nghèo, tuổi đã già nhưng vẫn phải lo kiếm miếng ăn trong truyện ngắn “Một bữa no”. Hay hình ảnh Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – một người nông dân hiền lành, cần cù, chăm chỉ, lương thiện nhưng cũng chính cuộc sống khó khăn, nghèo khổ đã đẩy ông tới cái chết. Cùng viết về người nông dân nhưng truyện ngắn “Chí Phèo” lại mang một màu sắc riêng biệt. Tác phẩm được trích trong tập “Luống cày”, với tên gọi ban đầu là “Cái lò gạch cũ”. Khi in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi thành “ Đôi lứa xứng đôi”. Nếu như ở các tác phẩm như “ Lão Hạc”, “Một bữa no”,… người nông dân tuy có cuộc sống vất vả, cơ cực nhưng họ vẫn được làm người, vẫn được xã hội công nhận còn Chí Phèo bị trượt dài trên dốc tha hóa, bị xã hội tước đi quyền làm người. Qua đó, tác giả đã tạo nên một bức tranh sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột ngạt, tăm tối cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng. Mà đoạn trích miêu tả quá trình hồi sinh của Chí Phèo đã góp phần thể hiện rõ tư tưởng của tác phẩm cũng như tác giả.
Trong cuốn “Tam Tự Kinh”, Mạnh Tử đã viết rằng: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Con người khi sinh ra, ai cũng mang bản tính hiền lành, lương thiện. Và Chí Phèo cũng vậy, hắn từng là một người nông dân hiền lành, lương thiện. Mặc dù xuất thân của Chí là một con số không tròn trĩnh: không cha mẹ, không gia đình, không người thân, không tuổi thơ, không nhà cửa nhưng Chí vẫn là một anh canh điền hiền lành, chất phác, giàu lòng tự trọng, có ước mơ giản dị, chân thành về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Chắc hẳn, nếu được sống trong xã hội tốt đẹp thì anh chàng lực điền này sẽ trở thành một người chồng, người cha, người hàng xóm tốt. Thế những, xã hội mục ruỗng, thối nát đó không cho phép Chí được sống lương thiện. Bước ngoặt đến với Chí khi anh hai mươi tuổi, chỉ vì một cơn ghen vô cớ, Lí Kiến đã đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân đế quốc không phải là nơi giáo dục, cảm hoá con người mà là nơi biến người lương thiện thành kẻ bất lương. Đúng như dự đoán, sau khi ra tù Chí Phèo đã biến thành một tên lưu manh, một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Nhà tù và môi trường xã hội độc hại đã nhuộm đen tâm hồn Chí làm biến dạng cả nhân hình, lẫn nhân tính: “Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái mặt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngược phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Đây là ngoại hình của một tâm hồn tha hoá, lưu manh hoá, là dấu vết của những năm tháng sống trong tù. Sau hai lần đến nhà Bá Kiến, Bá Kiến với thủ đoạn thâm độc, lọc lõi đã dùng tiền mua chuộc, biến Chí thành tay sai đắc lực gây nên biết bao tai hoạ cho người dân. Cuộc đời của hắn giờ đây đắm chìm trong những cơn say triền miên, những cuộc chửi bới, chiếm giết. Hắn đã đốt phá bao nhiêu cơ nghiệp làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện.
Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra với tiếng chửi vu vơ. Hắn chửi rất bài bản từ cao xuống thấp, từ trừu tượng đến cụ thể. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi mẹ đứa nào đã đẻ ra thân hắn. Tiếng chửi không có lời đáp lại tức là Chí chửi đổng, chửi vu vơ. Không ai thèm chửi nhau với hắn có nghĩa là tất cả một người đã dứt khoát không coi hắn là người, đã loại hắn ra khỏi cộng đồng loài người. Thế nhưng, với trái tim giàu lòng nhân đạo, ngòi bút của Nam Cao đã lách thật sâu vào tâm hồn Chí để khám phá bằng được bản chất lương thiện tiềm tàng trong con người bất hạnh ấy. Sự xuất hiện của Thị Nở có ý nghĩa như là bước ngoặt thức tỉnh ý thức, thay đổi cuộc đời Chí. Sau buổi tối “ăn nằm” với nhau, Chí Phèo đã có những chuyển biến rõ rệt. Phản ứng đầu tiên của Chí Phèo sau khi tỉnh dậy là cảm giác nôn nao khi ngửi thấy hơi rượu: “Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài, hắn thấy miệng hắn đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm”. Đây là sự thay đổi rất đáng chú ý ở Chí Phèo bởi trong suốt thời gian Chí làm quỷ dữ, hắn chỉ có một người bạn duy nhất là rượu. Nam Cao đã từng khẳng định cuộc đời hắn là một cơn say dài mênh mông tràn từ cơn này sang cơn khác. Điều đó cho thấy rượu là một thứ rất quen thuộc và không thể thiếu với Chí Phèo, nhưng đến đây hắn lại có cảm giác sợ rượu và “lòng mơ hồ buồn”. Đối với mọi người thì buồn là cảm xúc tiêu cực nhưng với Chí thì đây là một dấu hiệu tích cực bởi Chí đã thực sự tỉnh rượu để sống với cảm xúc thực của chính mình. Ngay sau đó, Chí Phèo đã có những cảm nhận tinh tế về cuộc sống bên ngoài. Dù ở trong cái lều tối om nhưng Chí đã căng toàn bộ giác quan của mình để nhận thấy “mặt trời đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài là đủ biết.”. Đặc biệt Chí Phèo đã ghi lại tất cả các biểu hiện của cuộc sống con người đó là tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng chim hót líu lo…Những giai điệu quen thuộc ấy ngày nào cũng có nhưng hôm nay Chí với nghe thấy bởi vì bây giờ hắn mới tỉnh táo, các giác quan mới rộng mở để lắng nghe “tiếng đời lăn náo nức”. Đó chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc sống, có sức vang động sâu thẳm trong tâm hồn Chí. Cuộc gặp gỡ với Thị – “người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn” như một định mệnh trong cuộc đời Chí. Thị như một tia chớp loé ngang cuộc đời tăm tối của hắn. Dưới ánh sáng ấy Chí Phèo nhìn rõ cuộc đời mình cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Chí nhớ lại quãng đời lương thiện với những ước mơ giản dị: “mong một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Hiện tại thì thật buồn: “Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai lại càng buồn hơn: đói rét, ốm đau và cô độc – “cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những nỗi sợ này rất con người chứng tỏ Chí rất tỉnh táo. Từ khi ra tù về Chí triền miên trong những cơn say và sống trong trạng thái vô thức. Đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo suy nghĩ để nhìn thấy tình trạng bi đát của cuộc đời mình.
Khát khao lương thiện của Chí thực sự bùng cháy mãnh liệt sau khi nhận được bát cháo hành của Thị Nở. Lần đầu tiên được ăn cháo, Chí thấy cháo hành thơm ngon lạ lùng. Đây cũng là lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay của người đàn bà. Bởi vậy, sau khi ăn cháo Chí trở lại đúng với bản chất hiền lành, lương thiện của anh canh điền ngày xưa. Thị đã khơi dậy những cảm xúc rất nhân văn ở một tâm hồn tưởng như đã cằn cỗi, trơ cứng. Phản ứng tâm lí đầu tiên của Chí Phèo khi thấy Thị Nở mang bát cháo hành đến là sự ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng: “thằng này rất ngạc nhiên”, phản ứng tâm lí này là hoàn toàn tự nhiên và hợp lí bởi đây là lần đầu tiên hắn được cho ăn. Xưa nay muốn có thứ gì hắn thường phải doạ nạn, cướp giật. Bát cháo hành đã giúp cho hắn ngộ ta một điều: “Hoá ra trên đời này người ta có thể cho nhau ăn”. Hết ngạc nhiên, hắn thấy mắt “hình như ươn ướt”. Chí Phèo xúc động đến trào nước mắt. Có lẽ, sau tiếng khóc chào đời, hôm nay hắn mới khóc. Chính tình yêu thương, chân thành, nồng nàn, ấm áp của Thị Nở đã khiến một con quỷ dữ phải rơi nước mắt. Với Nam Cao nước mắt là giọt nhân tính chỉ những người giàu tình thương với biết khóc. Nó cho thấy Chí Phèo đã chính thức tìm lại được những cảm xúc trong khoảng thời gian bị tê liệt. Hắn nhìn bát cháo hành mà “bâng khuâng vừa buồn vừa vui” vì đã có một người làng Vũ Đại đối xử với hắn như một con người. Dường như “Hơi cháo hành nhỏ nhoi, mờ nhạt ấy đã hằn lên vết cứa, vết xước trong tâm hồn người”. Bát cháo hành của Thị mộc mạc, giản dị nhưng mang ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đã thế nó còn được nấu bằng đôi bàn tay vụng về của một người dở hơi như Thị. Có lẽ, cảm giác ngon ở đây không đơn thuần về mặt vật chất, mà còn là liều thuốc tinh thần kì diệu của tình yêu, tình người. Một bát cháo được nấu bằng cả tấm lòng, cả tình yêu làm lay động trái tim, vực dậy được con người lương thiện mà bấy nay bị chôn vùi trong Chí. Anh Chí mà trước đây chỉ biết uống rượu, rạch mặt ăn vạ thì giờ đây đã cảm thấy ăn năn, hối hận về những việc đã làm trong suốt hai mươi năm qua. Một câu hỏi hệ trọng đã day dứt hắn: “Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ đi gây kẻ thù”. Câu nói này không chỉ có ý nghĩa riêng với Chí Phèo mà còn có ý nghĩa với cả nhân loại. Cảm nhận được tình yêu thương của Thị Nở đã khiến cho Chí không còn thấy trước mặt mình là người đàn bà xấu đến mức cả làng Vũ Đại ghê tởm mà ngược lại thấy Thị rất có duyên : “Trông Thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên”. Trước Thị Nở hắn đã có những biểu hiện thật hồn nhiên: “Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Thị Nở đã bù đắp cho hắn những tình cảm cao quý không chỉ là tình yêu mà còn là tình bạn tình mẹ. Không chỉ là khát vọng được sống lương thiện mà Chí Phèo còn khao khát hơn bao giờ hết được sống hạnh phúc với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”, “hay là mình sang ở đây ở với tớ một nhà cho vui”. Lời tỏ tình ấy của Chí Phèo mộc mạc mà giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng và chất chứa nỗi niềm hạnh phúc. Hắn thấy lòng thành rất vui khi nhìn Thị Nở, được Thị Nở “lườm yêu”. Đó là giây phút mà hắn người nhất sau biết bao nhiêu năm triền miên trong những cơn say. Đến đây bức tranh tâm lí của Chí đã hoàn thiện và đằng sau quá trình tâm lí ấy người đọc đã thấy một sự biến đổi kì diệu để từ một con quỷ dữ người đọc cảm nhận được tâm hồn, nhân phẩm của một con người. Qua đó chúng ta thấy được chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao. Ông đã phát hiện và khẳng định sức mạnh của tình yêu chân chính. Người ta thường nhắc đến và ngưỡng mộ về một thiên tình sử của Romeo và Juliet bởi sự vượt lên hoàn cảnh, chiến thắng hận thù để bảo vệ tình yêu của mình. Nhưng theo tôi, chỉ với năm ngày ngắn ngủi thôi, Chí Phèo với Thị Nở đã làm nên một thiên tình sử mang đậm dấu ấn Nam Cao trong lòng bạn đọc.
Thế nhưng, khi bản thân con người ta đang muốn bắt đầu lại từ đầu, cũng là lúc những giông bão cuộc đời ập đến. Cuộc gặp gỡ cách đây năm ngày, tưởng chừng là một kết thúc hạnh phúc cho cuộc đời anh Chí nhưng cuối cùng, lại là bước khởi đầu cho bi kịch đớn đau muôn phần – bi kịch cự tuyệt tình yêu, cự tuyệt quyền làm người. Chí bị người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cự tuyệt. . Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt của Chí Phèo, dập tắt biết bao nhiêu mong mỏi, biết bao nhiêu khao khát và hy vọng của một con người đang muốn quay đầu : “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo”, những định kiến về xuất thân của Chí giống như một lối mòn, chẳng thể nào bị xóa bỏ. Cánh cửa quay trở về với cuộc sống lương thiện vừa hé mở, ngay lập tức bị đóng sầm lại chỉ vì những định kiến, những suy nghĩ cổ hủ xuất phát từ một bà cô già. Thị Nở khước từ Chí, để lại con thú dữ đang muốn quay đầu với một đống ngổn ngang những suy nghĩ. Chí tìm đến rượu, để giải tỏa sự thất vọng và sầu muộn trong lòng của mình. Chí muốn say, muốn thật say để thoát khỏi sự đau đớn và tuyệt vọng này nhưng không hiểu tại sao, Chí càng uống, càng tỉnh, Chí nhận ra bi kịch của cuộc đời mình, Chí thấy đau đớn xiết bao khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành”. Đó chính là hương vị của tình yêu, tình người cứ vương vấn, ám ảnh khôn nguôi, càng nhấn sâu vào bi kịch và niềm khao khát yêu thương của Chí. Đau đớn tột cùng, hắn “ôm mặt khóc rưng rức”. Dó chính là giọt nước mặt tuyệt vọng của một con người tuy giấc mơ hạnh phúc của mình bị tan vỡ mà không làm gì được. Hạnh phúc với Chí ngắn ngủi như chiếc cầu vồng thoáng hiện sau cơn mưa rồi vụt tắt.
Chí quyết định xách dao đến nhà Thị nở để chém chết con “khọm già”, con “đĩ Nở”. Thế nhưng, lối mòn của tội ác lại đưa bước chân của Chí đến một nơi quen thuộc – nhà Bá Kiến. Hơn ai hết, Chí Phèo nhận ra được hoàn cảnh bi kịch của mình lúc này, Chí hiểu được sâu sắc ai đã đưa cuộc đời của mình đến việc đội lốt quỷ để sống, Chí Phèo hiểu kẻ đã làm cho hắn đến nông nỗi này chính là Bá Kiến. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, dõng dạc đòi lại quyền làm người “Tao muốn làm người lương thiện”, “Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi bỏ ngỏ, cũng là những tiếng kêu cứu đầy thống thiết của một con người mong muốn được quay trở về, được hòa nhập, được thực hiện những ước mơ bình dị của mình nhưng lại bị cả xã hội ruồng bỏ. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương, vô nhân đạo, đẩy con người vào bước đường cùng. Câu nói cuối cùng của Chí: “ Tao muốn làm người lương thiện” day dứt cả thế nhân. Đồng thời nó cũng bao quát cả chủ đề lớn trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Nam Cao: nhà văn luôn day dứt trước tình trạng con người vì miếng cơm manh áo mà đánh mất nhân tính nhân phẩm. Ông viết về vấn đề của một thời nhưng cũng là vấn đề của mọi thời. Hành động của Chí tuy manh động, tự phát nhưng phù hợp với quy luật phát triển: “Tức nước vỡ bờ”, có áp bức có đấu tranh. Qua đó, thể hiện cảm quan hiện thực sắc sảo của nhà văn Nam Cao. Lưỡi dao của Chí Phèo vung lên đã báo hiệu cơn bão tác của Cách mạng tháng Tám. Cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân lương thiên vào con đường bần cùng hoá, tha hoá, lưu manh hoá và phải đi tìm đến cái chết. Sinh ra Chí Phèo bằng xương bằng thịt là một người mẹ khốn khổ, bất hạnh. Nhưng đẻ ra Chí Phèo – một con quỷ giữ là cả một cơ chế xã hội thối nát, người ăn thịt người. Phải thay đổi xã hội bất công tàn bạo đó để con người được sống bình yên, hạnh phúc.
Đúng như Mác-xen Pruxt từng nói: “Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Trước Nam Cao viết về người nông dân đã sừng sững những hình tượng lớn như Chị Dậu trong “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, Anh Pha trong “ Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan. Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: “ Khi chị Dậu, anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người ta liền mói nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất”. Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán sữa nhưng dẫu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo là đỉnh điểm của sự cùng khổ, phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Dù là người đến sau trên mảnh đất đã được nhiều người cày xới nhưng với tấm lòng nhân đạo, đôi mắt giàu tình thương, Nam Cao đã khám phá ra bản chất tốt đẹp ẩn sâu trong những người nông dân lương thiện. Điều mà trước đó ta chưa từng thấy. Tác giả đã gửi gắm vào quá trình hồi sinh của Chí Phèo một tư tưởng sâu sắc: đó là niềm tin về sự hoàn lương của con người luôn tồn tại. Quá trình hồi sinh là một ngã rẽ được đặt trong sự đối lập của bi kịch cuộc đời, người ta chỉ thực sự khổ khi họ biết được mình sống trong cái khổ. Giá như Chí cứ say mãi thì đâu phải tỉnh, để nhận ra sự khốn cùng của mình. Để thể hiện được giá trị nội dung sâu sắc của tác phẩm, phải kể đến tài năng của nhà văn. Tài năng đó được thể hiện ở việc sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm độc đáo, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật bậc thầy của nhà văn. Tất cả đã khiến người đọc không khỏi ấn tượng và cảm thông sâu sắc trước sự thức tỉnh của người nông dân trong quá trình bị tha hoá.
Sê – khốp đã từng nói: “Một nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ cốt tuỷ”. Thông qua truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao đã gửi đến độc giả một tuyên ngôn về chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội bất công, vô nhân tính. Qua đó, thể hiện niềm tin bất diệt vào những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Quả thật, Nam Cao đã “biến mình thành kẹp chả dưới tay mình, tự đem mình ra quạt dưới than hồng” (Nguyễn Minh Châu)
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo” state=”close”]
Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo
Hình Ảnh về: Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo
Video về: Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo
Wiki về Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo
[/toggle]
Nguồn: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Ngữ văn
Trả lời