Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều? Dàn ý? Bài mẫu số 1? Bài mẫu số 2?Bài mẫu số 3?
Truyện Kiều là một tuyệt bút nghệ thuật của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đây cũng là một trong những tri thức trọng tâm của chương trình ngữ văn.Cùng chúng tôi tìm hiểu những bài phân tích đoạn trích Trao duyên hay nhất để giúp các bạn học trò có một kì thi đạt kết quả cao nhé!
1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều:
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa toàn cầu. Sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những thảm kịch, Nguyễn Du may mắn được tiếp thu những tinh hoa văn hóa từ truyền thống gia đình. Tuy vậy, cuộc đời ông cũng gánh chịu nhiều thảm kịch đớn đau, ông mồ côi cha mẹ từ sớm, bản thân ông đã phiêu dạt “mười năm gió bụi” ở quê vợ Thái Bình.
Nguyễn Du đã để lại cho nền văn hóa dân tộc những tác phẩm trị giá, khẳng định tài nghệ của ông, Nguyễn Du có 3 tập thơ (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai tuyệt bút “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.
Truyện Kiều là một trong những tuyệt bút đó. Tác phẩm có tên là “Đoạn trường tân thanh”. Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát. Xuất xứ: “Truyện Kiều” được sáng tác dựa theo tình tiết “Kim Vân Kiều truyện” – tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và đem lại cho “Truyện Kiều” những thông minh mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật.
2. Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên:
2.1. Mở bài:
Giới thiệu nói chung về tác giả, tác phẩm và đoạn trích Trao Duyên
2.2. Thân bài:
Vị trí đoạn trích:
Thuộc phần II – Gia biến và phiêu dạt, từ câu 723 tới câu 756, sau lúc đưa ra quyết định đặt chữ hiếu lên trên, quyết định bán mình chuộc cha, Kiều trao duyên cho Thúy Vân.
Phân tích “Trao duyên”:
– Mười hai câu thơ đầu: Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân nhận lời Trao duyên
+ Hai câu thơ đầu: Thúy Kiều dùng những lời lẽ và hành động trang trọng để bộc bạch lời khẩn cầu, nhờ cậy của mình với Thúy Vân
+ Sáu câu thơ tiếp theo: Nàng thổ lộ, san sớt chuyện tình yêu của mình và Kim Trọng, cũng như hoàn cảnh oái oăm ngày nay
+ Bốn câu thơ tiếp: Thúy Kiều đưa ra phép tắc thuyết phục Thúy Vân nhận lời nối duyên
– Mười bốn câu thơ tiếp theo: Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân
+ Những kỉ vật tình yêu thiêng liêng của Thúy Kiều và Kim Trọng, trình bày mối tình sâu đậm, gắn bó: “Chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”.
+ Sự tranh chấp xâu xé giữa lý trí và tình cảm, vừa níu giữ vừa dứt khoát trao gửi mối tình dang dở
+ Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
– Tám câu thơ cuối:
+ Ý thức về thảm kịch ngày nay của mình: rằng mình sắp phải đương đầu với sự chia phôi, tan vỡ, ý thức về số phận bạc nghĩa của chính mình
+ Nỗi đớn đau lúc phụ tình cảm của chàng Kim Trọng
Nhận định:
– Nội dung: Đoạn trích trình bày số phận thảm kịch của Thúy Kiều, thảm kịch nhưng mà nàng phải gánh chịu trong tình yêu, qua đó khắc họa tư cách cao đẹp của nàng.
– Nghệ thuật: nghệ thuật mô tả nội tâm nhân vật rực rỡ.
2.3. Kết bài:
Khẳng định lại trị giá của đoạn trích, tác phẩm.
3. Bài mẫu số 1:
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút vàng đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước ngoặt lịch sử. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm ghi dấu tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, trình bày sự dằn vặt, nỗi lòng đớn đau của nàng Kiều lúc buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như tuyệt bút văn học của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy tình tiết của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Mượn tình tiết của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du khai thác tình tiết tầm thường đó thành tiếng kêu bi ai tới xé lòng, một bản sầu ca não nùng của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 tới câu 756 trong phần “Gia biến và phiêu dạt”, tái tạo lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp thiến nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình ko thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn trách nhiệm, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô “chị, em” thông thường. Từ “cậy” đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ ko cần “thưa” hay “lạy”, nhưng trong hoàn cảnh đó, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục tiêu giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ “em” được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh “lạy”, “thưa” “cậy” mở ra một nỗi lòng đau xót, báo hiệu tương lai mịt mù, u tối, phải nhờ vả, lệ thuộc, mưu cầu lòng thương của người khác.
Thúy Vân trở thành bề trên, “ngồi lên” để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, cập kênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều lúc nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hứa hẹn với người yêu. Thúy Kiều khởi đầu bộc bạch nỗi lòng mình với em gái bằng những lời đau xót, đớn đau:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ lúc gặp chàng Kim
Lúc ngày quạt ước lúc đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Tới đây, người đọc bỗng hiểu ra cái cậy nhờ ban sơ của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân ko thể từ chối. Với thân phận là chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm tương trợ gia đình qua cơn thiến nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với ý trung nhân chứ ko thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái “đứt gánh tương tư” đó chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên gián đoạn. Hai tiếng “mặc em” giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, đau buồn. Kiều thủ thỉ tâm tình với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:
Kể từ lúc gặp chàng Kim
Lúc ngày quạt ước, lúc đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Câu thơ trình bày sự khổ cực của Thúy Kiều lúc nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều ko muốn em phải nhọc lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy thân thiện, thông cảm. Từ buổi gặp mặt tới hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh “quạt ước”, “chén thề”, nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, thâm thúy. Trao duyên cho em nhưng mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn chuyện oan trái này xảy ra.
Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những trắc trở tự dưng ập tới gia đình, buộc nàng vào tình thế cực chẳng đã. “Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, một câu nói vừa tự vấn lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều lúc trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều ko hề muốn hai chị em phải đương đầu với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị nhưng mà giúp chị tiếp nối tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khát khao nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khát khao sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời xấu số lại ko cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi đó. Ko những thế, Kiều còn trình bày sự khôn khéo, tinh tế lúc lựa lời nhắc đến tới hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười cửu tuyền hãy còn thơm lây
Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em tiếp nối mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng trình bày sự đau xót, đắng cay lúc nhắc tới cái chết “Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười cửu tuyền hãy còn thơm lây”. Hình như lúc chọn tuyến đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mù mịt, dự cảm ko lành về số phận nghiệt ngã. Nếu ko có những chuyện tai bay vạ gió, ko có những uẩn khúc gia đình thì có nhẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình.
Lời nói ko chỉ trình bày cái đớn đau lúc phải chia phôi gia đình nhưng mà còn chứa đựng cả những tủi thân, rầu rĩ lúc ko được ở bên ý trung nhân. Trong hoàn cảnh đó, nàng chỉ biết nhờ tới em, để sau này lúc “thịt nát xương tan”, nàng vẫn có thể ngậm cười nơi cửu tuyền, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên nhưng mà nàng hằng khát khao, nâng niu là điều đớn đau tới tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng tiếp nối mối duyên tình để ko phụ lòng Kim Trọng. Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời thành tâm nhất:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, thơ ngây. Nhìn những kỉ vật đó, lòng người con gái sao tránh khỏi bổi hổi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh đó, lúc Kim Trọng đang ở xa, ko hề hay biết tin tức gì, bản thân sẵn sàng một cuộc đời phiêu dạt, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đớn đau lại dâng tới tận cùng. Những kỉ vật đó thật khó lòng buông bỏ, vì thế nhưng mà câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm “của chung”, của cả hai chị em.
Câu nói có một tí con gái, một tí ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với người nào khác. “Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”, một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong tới ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc nghĩa đưa đẩy chị tới đường cùng chứ thật tâm chẳng phải muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, sờ sờ thân phận nhờ vả nhưng mà còn yêu cầu, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, mập mờ từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu thành tâm, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu nhưng mà lại buộc phải chia phôi. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng người nào cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ. Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn ko thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:
Ngày mai dù có bao giờ
Đốt lò hương đó, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân liễu bồ, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Lời nói mang một sự đau lòng não nùng, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ trình bày Kiều đã ở một toàn cầu khác, ko thể trở về với cuộc sống tầm thường, ko được sum họp với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều ko dám nghĩ tới việc mưu cầu cho hạnh phúc tư nhân nhưng mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự thất vọng và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. “Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan”, hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc.
Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ tới cái chết thảm kịch, cái chết oan khúc, thất vọng. Nhưng bản thân người con gái đó lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tơ duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, thảm kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ tới tình nghĩa, thề hứa hẹn. Tâm tình với em, Thúy Kiều cũng ko quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:
Hiện thời trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ân ái.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần đó thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đành rằng nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tâm tình với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng ngày nay. Nàng ý thức được số phận bạc nghĩa bằng những điển cố “gương gãy”, “trâm tan”, những hình ảnh gợi sự chia phôi lứa đôi. Xét tới cùng, mục tiêu của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi tới chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước lúc buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. “Muôn vàn ân ái” nay đã trở thành quá khứ, sự thực giờ chỉ còn “tơ duyên ngắn ngủi có ngần đó thôi!”.Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình.
Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn “bạc như vôi”, “nước chảy, hoa trôi lỡ làng”, sự bất lực, phó mặc số phận vì ko có tiếng nói, ko có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng ” Hỡi Kim Lang!” thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi “lang” là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng thành tâm, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm đó vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một tí phi lý trong câu nói của Kiều, rằng vì sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là “lang”, là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi ức về những phút giây ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đương đầu, nhưng cảm giác tội tình của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để trình bày ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa trình bày tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đoạn trích “Trao duyên” đã nói chung một cách thâm thúy nhất những cung bậc xúc cảm của Thúy Kiều lúc buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khôn khéo, sắc sảo nhưng bạc phận, long đong. Bằng văn pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ xúc cảm qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho thảm kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những cụ thể đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim độc giả với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua “Trao duyên”, Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời đây là cũng một bản án lên án xã hội bất công, bạc nghĩa đã đẩy con người vào cửa cửa ải chia phôi, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng thừa hưởng hạnh phúc.
4. Bài mẫu số 2:
“Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một tuyệt bút văn học của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh oái oăm, dang dở tơ duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận thâm thúy.
Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự xa lạ, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và xếp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái xa lạ của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính oái oăm trong đoạn trích này. Sự nghịch lý chính nằm ở hành động trao duyên của Thúy Kiều, nàng muốn đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thúy Vân, nhờ em tiếp nối nhân duyên trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa”, được tác giả sử dụng mang trị giá gợi tả và gợi cảm cực đắt. Thúy Kiều ko đơn giản là nhờ vả nhưng mà là trông cậy vào Thúy Vân, chỉ có Vân mới giúp được Kiều trong hoàn cảnh này, nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với chính em của mình, chỉ mong em có thể chấp nhận lời đề xuất khó khăn nhưng thiêng liêng này. Thúy Kiều trong hoàn cảnh oái oăm nhưng vẫn trình bày được sự khôn khéo, tài tình và thông minh, coi em như ân nhân của mình bằng tất cả sự kính trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim, thổ lộ lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thúy Vân, chính vì sóng gió ập tới bất thần với gia đình khiến nàng đành từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em máu mủ, thấu hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng nhưng mà chấp nhận mang vào mình mối tơ thừa duyên tình của Kiều.
Lời nói của Kiều đã thấu đạt hết lý hết tình, Vân có muốn từ chối cũng khó mặc dù Kiều biết đó cũng là điều thiệt thòi và khó xử cho Vân. Có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dù chết cũng cảm thấy yên lòng và toại nguyện, “Ngậm cười cửu tuyền hãy còn thơm lây”, cái chết cũng trình bày sự cảm kích trước những thiệt thòi nhưng mà em phải chịu thay mình. Sau lúc đã nói lời trao duyên, tới lúc Kiều trao lại những kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
Đem những kỉ vật tình yêu thiêng liêng trao đi, Kiều như trao đi những thứ quan trọng nhất của cuộc đời mình, hiện thời duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa phải trao đi cho thấy nàng và Kim Trọng đã yêu nhau sâu đậm, nồng nàn và thủy chung một lòng. Mất đi tình yêu, trao đi kỉ vật, cuộc sống của Kiều đã ko còn gì đáng luyến tiếc hơn nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dù có chết vẫn giữ trọn lời thề son sắt:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân liễu bồ đền nghì trúc mai”
Kiều đã vô vọng hết sức, chẳng còn hi vọng nào cho tình yêu và số phận của cuộc đời mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng ko thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi khổ cực của nàng:
“Hiện thời trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ân ái”
Tất cả tơ duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đớn đau lúc phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy tới người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy xấu số của mình, nàng ko thể kháng cự lại nhưng mà đành tự thương xót cho chính mình.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự vô vọng, tiếng gọi ngập tràn nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh nhưng mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh phúc.
“Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng liên kết với những từ ngữ mang trị giá gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm thu được nỗi khổ cực của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc phận của Kiều.
5. Bài mẫu số 3:
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du ko còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ độc giả. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên tuyệt bút này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình ko mấy đoạn dài hơn tương tự. Đoạn này thật lâm ly, nhưng mà như thế mới biết hết tình sự”.
“Trao duyên” là đoạn thơ tính từ lúc câu 723 tới câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, xâu xé của Thúy Kiều lúc nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho độc giả. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất xinh đẹp thấy, dễ cầm nắm chứ mấy người nào lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó tưởng tượng như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy nhưng mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?
Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều ko người nào mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều ko thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để cứu cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước lúc theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
“Cậy” và “nhờ” là hai từ đồng nghĩa nhưng vì sao trong trường hợp này, Thúy Kiều lại nhờ từ “cậy”? Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác tương trợ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em ruột, vì thế nàng Kiều đã dốc hết lòng tin để gửi gắm mối duyên tình. Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở thành nặng nề hơn, đồng thời cũng trình bày mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Người được nhờ có thể nhận lời hoặc từ chối tương trợ nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh nhưng mà nàng chỉ có thể “chịu lời”.
“Chịu lời” là một sự chấp nhận buộc phải, ko còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có nhẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ thức trang trọng để bộc bạch nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ thức trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động đó cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Trong trường hợp này, Thúy Vân là người nhưng mà Thúy Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ hiểu. Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì đột nhiên tai ương xảy tới:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều nhưng mà Thúy Kiều ko ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Chỉ còn đêm nay là đêm cuối cùng ở nhà bởi ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác, tình yêu với Kim Trọng chỉ còn trong kí ức chứ ko thể nào tiếp tục được nữa. Nhưng Thúy Kiều ko phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Tình yêu đó đối với Thúy Kiều có thể là một tình yêu đẹp nhưng đối với Thúy Vân thì đó có thể là “tơ thừa” vì nàng ko hề có tình cảm với Kim Trọng cũng như không phù hợp tới mối tình Kim – Kiều.
Vậy nhưng mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người nhưng mà mình ko hề yêu, hoàn cảnh đó thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ người nào nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người ko nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người nhưng mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì ko người nào có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý tương trợ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để tiếp nối mối duyên với Kim Trọng. Ko chỉ bằng lời nói, lễ thức trang trọng nhưng mà Thúy Kiều còn kể cho Vân nghe cụ thể chuyện tình yêu của mình để thuyết phục em:
“Kể từ lúc gặp chàng Kim
Lúc ngày quạt ước lúc đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”
Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng tương tự. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hứa hẹn. Điệp từ “lúc” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật mật thiết, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ tới đêm thề nguyền thiêng liêng đó:
“Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi”
Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng tới xương” tới nay đã ko thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Trong hoàn cảnh oái oăm tương tự, giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, nàng buộc phải chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ “hiếu” còn chữ “tình” nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình. Trong xã hội phong kiến, có mấy người nào làm trọn vẹn được cả “tình” cả “hiếu” và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha lúc luôn nghĩ cho người khác nhưng mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ “hiếu” của nàng cũng là điều hợp tình hợp pháp bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn đó chúng ta ko thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là “người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa” (Chu Mạnh Trinh). Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười cửu tuyền hãy còn thơm lây”
So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc nhưng mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một toàn cầu khác, Kiều vẫn vui vẻ, toại nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng đó đã được Nguyễn Du trình bày qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười cửu tuyền”. Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc tới cái chết của chính mình, Thúy Kiều đớn đau biết nhường nào. Dù ko muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em giữ gìn, trân trọng mối tơ duyên đó:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.
Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều khổ cực nhất, điều đó quả ko sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp tươi, thắm thiết là thế nhưng mà hiện thời lỡ làng, làm sao Thúy Kiều ko khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim – Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu nhưng mà nó trở thành “của chung”. Nỗi đớn đau của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn bạc tình chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm tương tự.
Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những phút giây Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ – một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự tranh chấp lúc nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh tình cảm tư nhân vì gia đình, nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân để mong Kim Trọng được hạnh phúc vậy thì một tí “duyên” nàng xin được giữ lại cũng là điều dễ thấu hiểu. Lại thêm một lần nữa, Thúy Kiều nghĩ về cái chết. Phải chăng nàng đã dự đoán được số phận nổi trôi, vô định, hẩm hiu của mình? Nàng tưởng tượng ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc nghĩa, xui xẻo mắn.
Tuy kỉ vật đã trao nhưng dường như Thúy Kiều ko thoát khỏi được sự ám ảnh về cái chết, nàng vẫn chưa thể yên lòng:
“Ngày mai dù có bao giờ,Đốt lò hương đó, so tơ phím này.Trông ra ngọn cỏ gió cây,Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.Hồn còn mang nặng lời thề,Nát thân liễu bồ đền nghì trúc mai.Dạ đài cách mặt, khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác oan”.
Kiều nhắc em ngày mai có đốt lò hương hay đánh đàn thì hãy nhớ tới mình, lúc đó nàng mong Vân hãy “trông ra ngọn cỏ lá cây” để thấy được vong linh oan khúc của mình. Lời nhắn nhủ đó tức tưởi và đau xót biết bao. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả lúc trở thành một vong linh thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng.
Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng tới xương” nhưng mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân liễu bồ” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu ớt, mỏng manh ko còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu lứa đôi. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho vong linh oan khúc, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đớn đau tự độc thoại với chính mình:
“Hiện thời trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ân ái.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần đó thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đành rằng nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Hơn người nào hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu thị cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy tới bất thần, đột ngột quá nên “muôn vàn ân ái” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng. Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần đó, số phận thì bạc nghĩa như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, xâu xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi tới người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ bạc tình đã phá đi lời thề nguyền trước đây. Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!
Đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật mô tả tâm lí nhân vật đạt tới đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự liên kết tiếng nói bác học trang trọng và tiếng nói dân gian để diễn tả những tâm trạng khổ cực, xót xa của Thúy Kiều lúc trao duyên lại cho Thúy Vân. Tiếng nói hội thoại và tiếng nói độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Ngoài ra, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần ko nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã trình bày tấm lòng nhân đạo, trình bày sự đồng cảm thâm thúy của thi sĩ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy nhưng mà ông đã viết:
“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.
Bạn thấy bài viết Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều – Nguyễn Du có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều – Nguyễn Du bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời