PHÂN CÔNG
Khác với những nhà văn cùng thời, Thạch Lam đến với văn đàn bằng một dấu ấn rất riêng. Anh cho rằng: “Đối với tôi, văn học không phải là cách đưa người đọc thoát ly, lãng quên; ngược lại, văn học là thứ vũ khí cao cả và mạnh mẽ mà chúng ta có được, để vừa tố cáo, thay đổi một thế giới dối trá, tàn ác, vừa làm cho tâm hồn con người trong sáng hơn, phong phú hơn”. Đó cũng là ý kiến xuất hiện xuyên suốt các tác phẩm của ông.Và tác phẩm “thổi hơi thở” tư tưởng ấy lên đến đỉnh điểm là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Đặc biệt, dưới ngòi bút nhân đạo của Thạch Lam, những giá trị nghệ thuật sâu sắc được kết tinh trong khung cảnh chờ đợi của chị em Liên.
Là một cây bút giàu cảm xúc và tài hoa, ông được biết đến là một trong những cây bút nổi tiếng của nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Đến với các tác phẩm của ông, chúng ta sẽ cảm nhận được hơi thở của hiện thực và lãng mạn trữ tình đan xen vào nhau. Không trào phúng như Vũ Trọng Phụng, cũng không viết về hiện thực tàn khốc như Nam Cao, thế giới văn chương trong Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu sắc. Ông đi sâu vào trái tim, gốc rễ nội tâm của nhân vật; chỉ có trong tác phẩm của anh, mọi vẻ đẹp, mọi cảm xúc tưởng chừng mơ hồ, mong manh trong lòng người mới được “phô bày” rõ nét hơn bao giờ hết. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Cũng như nhiều truyện ngắn khác của ông, “Hai đứa trẻ” có sự đan xen giữa chất hiện thực và chất trữ tình lãng mạn. Qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện rõ sự đồng cảm sâu sắc và niềm xót thương vô bờ bến đối với những cảnh đời nghèo khổ, khao khát được đổi đời. Dưới lăng kính hiện thực, cảnh đợi tàu trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã thắp lên tia hi vọng cho hai chị em Liên về một thế giới tươi sáng hơn so với sự nghèo đói, buồn tẻ hàng ngày.
Khung cảnh trước khi đoàn tàu đến mở ra với hình ảnh Liên cùng tâm hồn mình bay bổng với đất trời, với vũ trụ bao la. Như ta thấy, thời khắc đoàn tàu đi qua phố huyện Cẩm Giàng, không chỉ hai chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo đều mong chờ giây phút ấy. Với những người dân quê, họ đợi tàu đến để kiếm thêm vài miếng cơm manh áo, nhưng với Liên và An thì khác. Liên “không mong có người đến mua nữa. Ngoài ra, họ chỉ mua bao diêm hoặc gói thuốc vào ban đêm”, có phải chờ tàu chỉ vì nhu cầu vật chất? Chắc chắn là không, nguyên nhân chờ đợi của chị em Liên sâu xa hơn nhiều. Xuất phát từ nhu cầu đời sống tinh thần, hình ảnh đoàn tàu là niềm vui duy nhất trong ngày, như một sứ giả từ thế giới khác. Thạch Lam cũng viết dưới dòng mơ ước của Liên: “Con tàu như mang một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác đối với Liên, khác ánh đèn chị Tí, ngọn lửa bác Siêu. Đêm vẫn vây quanh, đêm của trong nước, còn ngoài kia, cánh đồng bao la, im lìm là hình ảnh tương phản với cuộc sống thường ngày của hai chị em, giữa phố huyện nghèo bao trùm bởi bóng tối u ám, chị em Liên luôn “mong một điều gì tươi sáng hơn cho cuộc sống nghèo khó thường ngày của mình”. , và đó cũng chính là lí do mà chị em Liên hàng đêm vẫn cố thức để nhìn đoàn tàu chạy qua.Dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng An và Kiên vẫn là những đứa trẻ, không thể thiếu đồ chơi. Đối với họ, chuyến tàu là niềm vui duy nhất trong ngày nên dù buồn ngủ họ vẫn cố thức chờ tàu để tìm cho mình một niềm vui nho nhỏ để tiếp tục sống và hy vọng.Nhưng niềm vui này chỉ là niềm vui và hạnh phúc nhờ niềm vui lan truyền. Chuyến tàu của thế giới đã trở thành một trò chơi tình cờ của An và Liên. Điều đó gợi lên sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.
Trong cảm nhận của Liên, chuyến tàu sắp tới như có một sức sống kỳ diệu, phố huyện yên ả lúc bấy giờ lại bắt đầu chuyển động. Dù Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để diễn tả sự háo hức của mọi người, nhưng nó vẫn còn văng vẳng trong âm vang tiếng bác Siêu ở quán phở, tiếng chị Liên vội vàng đánh thức bác. Những âm thanh xôn xao của “tiếng khách khe khẽ”, của tiếng còi tàu “vươn tới ngọn gió xa”,… chợt hiện về. Chúng nổi bật và như muốn xé toạc cái âm khí ma quái đang gặm nhấm nơi hai chị em Liên sống từng giây từng phút. Từ xa đến gần rồi đều vượt khỏi tầm mắt của Liên nhưng mỗi khoảnh khắc đoàn tàu xuất hiện đều được cô chụp lại rất tốt. Dù chỉ dừng lại trong chốc lát rồi lại đi vào đêm tối, đoàn tàu vẫn như một vì sao sáng. Tỏa sáng trên bầu trời bao la, ngôi sao ấy mang bao ước vọng, hoài bão hướng tới tương lai rộng mở. Sự tương phản sáng tối trong truyện ngắn được sử dụng như một thủ pháp chủ đạo trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Với diễn biến nội tâm tinh tế và có phần phức tạp của Liên, bóng tối dày đặc bao trùm cảnh vật càng làm tăng giá trị của ánh sáng, khiến ta hiểu rõ hơn “sự khát khao soi sáng và đổi thay”. của riêng hai đứa mà còn của tất cả những người dân nơi đây. Và thế là khi đoàn tàu đến, họ – trong đó có hai chị em Liên và An dần mơ về một thế giới rực rỡ và tươi đẹp hơn so với thực tại khốn khổ, nghèo khó vẫn đeo bám họ.
Và khi đoàn tàu ngày càng xa dần, chỉ còn “một chấm nhỏ đèn xanh treo trên toa cuối, xa dần rồi khuất sau rặng tre”, đó là lúc người ta cảm nhận sâu sắc nỗi buồn của một mạng sống. uể oải, treo xung quanh không thể thay đổi. Âm thanh xôn xao một lúc rồi biến mất, cuộc sống tẻ nhạt nơi thành thị lại trở về, và tâm trạng của họ cũng trở lại như thuở ban đầu: mơ hồ và mong manh. Huy Cận trong bài thơ “Quan quân” cũng rơi vào một cảm giác bâng khuâng, trống trải như Liên và bao người ở đây:
“Lúc nào cũng loanh quanh vài tư thế
Đến hay đi vẫn còn những khuôn mặt
Vì nó quá gần, nó quá buồn cười,
Chỉ có rất nhiều để lặp lại.”
“Bánh xe” thời gian vẫn quay, họ không niềm vui, không mục đích, không lý tưởng, mọi thứ đều vô nghĩa,… Họ chỉ chờ đợi một tia hy vọng, thứ có thể cháy mãi, cháy mãi cho tương lai. Tương lai ở huyện nghèo ấy có thể tươi sáng hơn. Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu khoảng cách vô định như ngọn đèn nhỏ của chị Tí chỉ soi sáng một vùng đất nhỏ bé”, trước bóng tối của thực tại, Liên cảm thấy mình quá nhỏ bé. Giữa bao la của đất trời, em như hạt cát giữa sa mạc, bơ vơ không biết tương lai sẽ đi về đâu và sẽ về đâu. Đó cũng là hình ảnh khiến nhiều độc giả bùi ngùi, thương cảm. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội trở về không chỉ là kỉ niệm mà còn là hình ảnh của một tương lai mong manh nhưng tươi đẹp và rực rỡ như một giấc mơ. Như ánh sáng của một ngôi sao băng, sáng lên rồi vụt tắt, lụi tàn trong vũ trụ và cả trong tâm trạng tiếc nuối của Liên. Nhưng dẫu sao, nó vẫn là niềm an ủi, là liều thuốc chữa mọi buồn chán, chán chường thực tại.
Lê Tâm Chính từng nhận xét: “Nếu truyện của Thạch Lam là một truyện thơ thì chi tiết chờ tàu của Hai đứa trẻ chính là đỉnh cao của hồn thơ ấy”. Bằng giọng văn nhẹ nhàng mà day dứt, Thạch Lam như chạm vào tiềm thức của mỗi người, đánh thức những cảm xúc kín đáo nhất. Ông viết về những cảnh đời nghèo khổ với tấm lòng cảm thương sâu sắc, bày tỏ sự trân trọng trước khát vọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn của người dân phố huyện, thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt, vô vị hiện tại. Nhưng không dừng lại ở đó, “Hai đứa trẻ” còn phản ánh tình người chân thực, nhẹ nhàng thấm nhuần trong suốt câu chuyện cổ tích. Lặng lẽ mà sâu lắng, những con người với tấm lòng nhân hậu bao la trong “Hai đứa trẻ”, nhất là trong khoảng thời gian chờ tàu, được “hiện lên” rõ nét dưới ngòi bút đầy cảm hứng của ông.
Ta như nghe thấy trong chi tiết chờ tàu, tiếng nói đòi quyền được vui chơi, được chăm sóc, yêu thương của những đứa trẻ nghèo nơi đây. Đó là tiếng nói đầy trách nhiệm của nhà văn Thạch Lam đối với những chủ nhân tương lai của đất nước và của cả nhân loại, là tấm lòng nhân đạo của nhà văn gửi gắm vào truyện ngắn. Đồng thời, tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam còn thể hiện ở thái độ tôn trọng những khát vọng chân chính của con người: khát vọng đổi đời, khát vọng sống có nghĩa. Qua đó, khơi dậy ý thức cá nhân ý thức về cuộc sống hiện thực của con người. Đây là nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học giai đoạn 1930-1945. Nhưng mỗi tác giả lại có một cách thể hiện khác nhau. Với Xuân Diệu:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn cô đơn suốt trăm năm”
Tố Hữu, nhà thơ của lý tưởng cộng sản, đã động viên thanh niên:
“Hãy đi bạn của tôi, hãy sống hết mình
Sống tràn đầy sức sống và say sưa
Sống với những đợt sóng cao mới
Sống mạnh mẽ dù chỉ trong chốc lát”
Nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Thạch Lam là ước mơ về một cuộc sống mới được cất lên từ tâm hồn của một đứa trẻ. Sống trong một thế giới đầy bóng tối, linh hồn trong sáng của họ sẽ bị đánh mất. Cảnh đợi tàu nói riêng và truyện ngắn nói chung đã là một câu trả lời đầy yêu thương, lạc quan trên cơ sở tôn trọng khát vọng sống của con người.
Đọc tác phẩm ta như cảm nhận được một tâm hồn, ta sẽ thấy một nhân cách cao đẹp ẩn dưới ngòi bút và từng câu chữ của nhà văn gửi gắm. Đến với tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, đó không chỉ là một truyện ngắn mà nó còn là những câu cách ngôn của nhà văn về con người và cuộc đời. Tác giả đã thể hiện sự ngậm ngùi trước những cảnh đời lầm than, tăm tối nơi phố huyện nghèo những ngày trước Cách mạng. Để làm bật lên ngôn từ nhẹ nhàng mà thấm thía, Thạch Lam đã khéo léo sử dụng chất liệu hiện thực xen lẫn chất lãng mạn từ trong cốt cách, miêu tả nội tâm chân thực và tinh tế, khiến cho nhân vật Liên trong cảnh đợi tàu càng để lại nhiều suy ngẫm và thương cảm. trong lòng người đọc. Nhờ đó, “Hai đứa trẻ” đã để lại trên văn đàn một dấu ấn rất riêng của Thạch Lam – Nhà văn có tâm hồn nhạy cảm, luôn trân trọng và tiết kiệm cái đẹp.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Phân tích cảnh đợi tàu trong “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm” state=”close”]
Phân tích cảnh đợi tàu trong “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm
Hình Ảnh về: Phân tích cảnh đợi tàu trong “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm
Video về: Phân tích cảnh đợi tàu trong “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm
Wiki về Phân tích cảnh đợi tàu trong “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm
[/toggle]
Nguồn: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Ngữ văn
Trả lời