Mùa xuân nhẹ nhõm len lỏi vào từng hơi thở. Ký ức nào cũng đầy màu sắc. Với tôi, cứ mỗi mùa gió bấc về già, tôi lại nhớ cha da diết.
Có người lắc đầu ngao ngán, mới hơn 20 năm thôi nhưng mà mọi thứ đã thay đổi nhiều quá.
Trong vô vàn hình ảnh và âm thanh vang vọng trong ký ức, có nhẽ từ khi ngày mồng 10 tháng 10 âm lịch hàng năm là thời khắc cố định để gieo vạn thọ vô cương, tùy theo có tháng nhuận hay ko. biết linh hoạt lùi thời kì gieo trồng, nếu ko muốn cúc vạn thọ vô cương ra hoa quá sớm; hay ko khí tấp nập của những ngày vào vụ gặt (từ tháng 10 tới nửa đầu tháng 11 âm lịch, nước trong các ao nuôi chưa rút cạn nên việc tát cạn ko thể thực hiện được; thời khắc này, muốn thu hoạch cũng phải thu hoạch). cá là người duy nhất để chụp ảnh); tiếp theo là công việc trồng rau của mẹ tôi, cũng giống như các dì, các bác trong xóm, luôn quan tâm tới những luống cải tản mạn, nhà nào cũng giống nhau; khó tính hay tử tế cũng phải có nồi thịt kho với ít dưa cải… Rồi mùi bánh đậu, bánh bông lan, mứt dừa…
Cứ thế mùa xuân nhẹ nhõm len lỏi vào từng hơi thở. Ký ức nào cũng đầy màu sắc. Với tôi, cứ mỗi mùa gió bấc già đi (gọi cho đẹp hơn là mỗi lúc gió mùa đông bắc về) tôi lại nhớ cha da diết. Anh là người nông dân chân chính cả đời bám ruộng vườn, sống chết với ruộng đồng có lúc xanh tươi, có lúc trắng tay vì địch họa, thiên tai… chắt chiu từng đồng để nuôi anh em tôi lớn khôn. lên. . Hình ảnh người cha khắc khoải trong lòng tôi, đau đáu mỗi lúc trời trở gió bấc, bởi người đã bình yên bên những lán tre, lũy tre nơi quê nhà…
Hàng năm vào giữa tháng Chạp, lúc nước trong các ao, họng rút cạn; Bố tôi bắt tay vào làm món cá kho để sẵn sàng đón Tết. Những ngày xuân năm nào anh em tôi cũng quây quần bên nhau, chắc mẹ tôi sẽ ăn món cá lóc nướng trui cuốn rau sống chấm mắm tôm. Ngoài ra, con cá lóc nướng trui này là con cá ba tôi bắt được về hầm trong họng ao, ở bãi bồi; Mùa này, nước vừa rút, cá còn nhiều và mềm nên thịt rất ngọt và thơm.
Để có được một vài chiếc hầm câu đống ý đặt dưới họng ao là cả một quá trình nghiên cứu rất “khủng” của ba tôi. Ko năm nào đặt hầm ở cùng một vị trí cố định, vì tùy theo mực nước cao thấp và lượng cá trong ao mỗi năm nhiều hay ít. Thôi thì cứ dẫn câu chuyện từ những kỷ niệm xưa đã nuôi nấng thế hệ 7X, 8X của chúng ta, những “đứa con” của thời đại 4.0 chắc hiện thời bán tín bán nghi; bởi vì cụm từ “kiếm cá hố” có thể ko tồn tại trong vốn tiếng Việt nhưng mà họ sở hữu.
Trước lúc quyết định ao hay rãnh nào để đặt bẫy cá; cha tôi chú ý tới con lạch, con nước; bởi điều này quyết định phần lớn tới việc sau lúc đặt hầm thì có “trúng mánh” hay ko. Ko phải đơn giản chỉ cần xách con phượng hay cái chum xuống ao là xong; Phần “kỹ thuật” có thể nói là cả một nghệ thuật của cha tôi nói riêng, của các bậc cao niên, cố lão trong vùng nói chung. Ko thể đặt hầm theo kiểu “chụp choẹt”, yêu cầu sự tỉ mỉ và khôn khéo. Ngoài ra, tùy theo họng ao hay họng đất tảo cát nhưng mà chọn lò lu hay lò thích hợp. Ông cha ta ngày xưa, có lúc ko cần khạp, lu, chỉ cần xới đất ngay dưới đáy ao, tuy khô nhưng vẫn dẻo, mỗi hầm có diện tích nhất mực là có thể đào được một hình tròn hoặc hình chữ nhật. Sau đó, anh dùng chai thủy tinh lấp đất cho tơi xốp, xung quanh mồm hầm rạch đường mòn, tạo độ trơn cho cá dễ “theo đuôi” chui vào hầm.
Nghe thì đơn giản, nhưng để làm được một hoặc vài hầm câu nhưng mà mỗi sáng sớm thu hoạch được cá đều đều là cả một sự tính toán tỉ mỉ: Làm mồm hầm như thế nào, trồng cỏ trên mồm hầm như thế nào. Làm thế nào để cá ko bắt được dị vật lúc chúng kiếm ăn về đêm, chỉ những người lớn tuổi như cha tôi mới đủ kinh nghiệm. Nhưng cũng phải nhắc một điều, ngày xưa, lúc chúng ta còn làm lúa mùa, mỗi năm một vụ, khoảng đầu tháng Chạp, lúc lúa héo và sắp chín cũng là lúc con nước lên. khởi đầu rút dần, các họng ao, ao lở loét. thường khô trước, độ rộng của các họng này ko quá lớn, trong quá trình tìm kiếm thức ăn cá có thể trườn, hoặc nhảy qua; Vì thói quen này nhưng mà lúc làm các món hầm, bạn có thể “sập bẫy” chúng. Những năm gần đây, bà con chúng tôi trồng 2-3 vụ/năm; phải luôn dự trữ đủ nước cho lúa mọc, trữ nước ở cánh đồng này cũng góp phần làm cho những hầm bắt cá của cha và các chú, các cụ, các già làng trở thành hoài cổ.
Cá đi ăn đêm và “rơi” xuống hầm là “nạn nhân” của chúng, nhưng qua con mắt nhà nghề của người làm hầm cá như cha tôi, có thể thấy đó là cuộc so tài của những con rắn khỏe (thỉnh thoảng ko quá to) và những con sào có sức trườn rất uyển chuyển; thỉnh thoảng vài con cá dày cũng “bon chen” nhưng mà rơi xuống hầm. Với tôi, thích nhất vẫn là cảm giác thức dậy từ rất sớm trong cái se se lạnh của gió bắc, với khuôn mặt ngái ngủ nhưng lại xách chiếc rổ tre với 5-7 con cá về khoe với bố, như thể nó là một thành thị. đánh bắt của họ. Thú vui trẻ thơ của tôi lúc đó chỉ đơn giản có thế, trong lúc đó là thành tựu của cả một quá trình làm hầm cá đầy thông minh và công sức của cha tôi.
Để có món khô cá lóc thơm ngon dùng trong mâm cơm gia đình dịp Tết tới xuân về; Ba tôi phải vất vả sẵn sàng từ trước đó, từ khi khoảng tháng Chạp, vì sớm hơn, có lúc nước chưa rút hết, ko thể lót chậu, đậy nắp hay đào đất làm hầm. Lúc đã có vài ổ cá đống ý, bố tôi khởi đầu chọn cái ao nhỏ gần nhà nhất; Mỗi sáng sớm sau lúc thăm địa đạo, cha tôi thả cá xuống ao để trang trí. Thường thì anh “đu” cá vào một chiếc lưới lớn, đáy sâu như góc mùng để lúc cần có thể dễ dàng kéo lên. bắt cá.
Mỗi kỉ niệm là một trời thương nhớ. Với tôi, ngoài lũy tre, bến nước, con thuyền nhấp nhô trên bến quê…; Ký ức về cha là phần dày nhất và sâu nhất trong trái tim tôi. Trong hình ảnh của ông, mỗi mùa gió bấc về già lại thong dong suy tính chọn ao, họng nào đặt được cá; rồi đậy nắp, đậy hũ hay đào hầm, cũng là cả một câu chuyện. Hơn nữa, mỗi năm mỗi khác, thường thì các rãnh nước càng xa con sông chính chảy ngang qua nhà, lộng gió và vắng vẻ càng tốt; như ko có hơi người, ít tiếng động hơn, dễ “lừa” đàn cá hơn.
Tính từ thuở tôi còn nhỏ, tới nay cũng hai ba mươi năm, tiếng “làm hố cá” thưa dần qua mỗi mùa gió bắc; vững chắc một lúc nào đó, thế hệ tôi và bạn hữu cùng trang lứa sẽ tiếp tục già cỗi, cằn cỗi rồi lại bay về miền mây trắng theo quy luật tự nhiên của đất trời; cùng các trò chơi dân gian như ô ăn quan, cò nẹt, cướp cờ…; Cái “nghề” làm hầm cá của cha tôi và các bậc tiền bối ngày xưa, nay trở thành… kỷ vật. Dẫu biết rằng mọi thứ trong cuộc sống sẽ vận động và tăng trưởng theo sự tăng trưởng của xã hội, nhưng tư nhân tôi ko khỏi ngậm ngùi, thương cho cái hồn của đất, hồn của quê hương, cố quốc…
Mỗi năm, lúc tháng Chạp về, những ngọn bấc sắt cũ lại nhớ… Hình ảnh cha tôi mỏi chân trên cánh đồng quê hương cứ rạch cho tôi hàng trăm vết…. Xung quanh tôi là hình ảnh anh cầm chai thủy tinh giã lớp đất khô hơi dẻo dưới đáy ao cách bếp một tẹo để cá ko nghe thấy tiếng, ko cảm thu được tiếng động. hơi người, chúng “vô tư” nhảy hầm theo hành trình sống về đêm của mình.
Ngày xuân là thời khắc gia đình sum họp, hồi ức, người thân quây quần bên nhau trong mùa sum họp mới. Mọi câu chuyện đều được khơi gợi, người già nói về quá khứ, người trẻ nói về thời khắc ngày nay; Có sự yên ấm, bình yên sau những mùa Tết ám ảnh của đại dịch Covid-19. Thắp nén hương lên bàn thờ, ánh mắt cha nhìn tôi như trìu mến những mùa Tết xưa. Ký ức về cha trong từng mùa gió bấc xưa, trong những câu chuyện như cây mai vừa nở, nồi bánh tét đêm ba mươi tàn tro, nồi thịt kho, mùi hành, củ kiệu,… ., xen lẫn vô vàn mùi hương. Vẫn tồn tại tiếng cá nhảy tanh tách mùa cũ.
Một mùa xuân nữa lại tới. Tràn đầy những hạt giống của ký ức sống lại…
Nhớ để nguồn bài viết này:
Nhớ thời cha tôi làm hầm bắt cá của website thpttranhungdao.edu.vn
Phân mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Nhớ #thời #cha #tôi #làm #hầm #bắt #cá
Trả lời