Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Trong số các tướng tài của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão nổi bật là một danh tướng văn võ song toàn, bách chiến bách thắng. Về sau, Phạm Ngũ Lão được tín nhiệm, phong đến chức Điện Sử, tước Quan Nội Hầu. Ngũ Lão là người được đại ân, được Hưng Đạo Đại Vương gả con gái.
Phạm Ngũ Lão đã có công rực rỡ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trải qua các đời vua kế tiếp, ông cũng từng làm tướng dẹp Nam và Ai Lao (Lào), lần nào cũng chiến thắng vẻ vang.
Con cháu Phạm Ngũ Lão tiếp tục làm tướng. Cuối đời Trần, con thứ năm của Phạm Ngũ Lão là Phạm Nhữ Dực làm tướng tiên phong đánh Chiêm Thành. Thừa thắng, Phạm Nhữ Dực tiếp tục trấn thủ vùng đất này.
Tranh chân dung danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Thời vua Lê Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão cũng có một người chắt là tướng tiên phong, dẫn quân đánh thành Đồ Bàn, kinh đô của nước Chiêm Thành, rồi làm Tổng đốc ở đây. Khi Chiêm Thành bị tiêu diệt, vị tướng tiên phong của dòng dõi Phạm Ngũ Lão đã định cư ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và lập nên họ Phạm ở đây cho đến ngày nay. Miếu tổ vẫn còn, đầy đủ sắc phong từ đời vua Lê Thánh Tông.
Nghệ Hoài
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam hổ quân ở thôn ngưu.
Nam trí liễu công danh,
Tu nghe thuyết dân gian Vũ Hầu.
Dịch:
TỪ VỰNG
Cầm ngọn giáo băng qua thị trấn mấy mùa thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng lấn át cả sao Kim Ngưu.
Người đàn ông vẫn chưa trả hết nợ công,
Thật xấu hổ khi nghe người ta kể câu chuyện về Vũ Hầu.
Dịch thơ:
Cầm ngang ngọn giáo, giữ lấy non sông
Át chủ bài Kim Ngưu, tam quân cao ngất trời.
Người đàn ông đáng kính là nhút nhát,
Hãy nghe Gia Cát Lượng giúp nhà Hán xưa!
(Vũ Bình Lục) dịch bệnh)
Bài thơ chữ Hán thất ngôn tứ tuyệt, chúng tôi dịch ra thể thơ lục bát truyền thống của Việt Nam, câu đầu đã phải lược bỏ ý trải mấy mùa thu (cáp thu), nhưng nghĩ lại cũng chẳng làm được gì nhiều. gây hại cho nội dung. nội dung của bản gốc.
Cầm giáo ngang trấn giữ núi sông trải mấy mùa thu (Hoàng sóc giang sơn vạn niên). Câu đầu hay ở chữ Hoành sóc, nghĩa là “Cầm ngang ngọn giáo”. Hãy tưởng tượng một chiến binh mặc áo giáp, đội mũ sắt, hai tay cầm một cây giáo dài, hai chân hơi dang rộng trong tư thế mạnh mẽ, vững vàng, hiên ngang giữa đất trời, che chở cho núi sông, bờ bến. nươc Nha. Không phải đôi lần, mà đã “trải qua mấy mùa thu”, tức là mấy năm rồi, vẫn hiên ngang như thế (cáp thu). Đây là hình ảnh của tác giả, của dũng tướng Phạm Ngũ Lão, nhưng cũng là hình ảnh của người lính thời Trần, như khắc vào trời xanh tầm vóc của người chiến sĩ mang tầm vóc của núi rừng Đại Việt và vươn tầm vũ trụ. . Vì vậy, “Hoàng sóc” dịch ra là “Múa giáo”, vừa không sát khí, vừa sợ làm mất đi tư thế oai hùng của hình tượng chiến binh.
Cảnh Phạm Ngũ Lão mải mê đan sọt mà không biết vua sắp đến.
Câu hai, lợi dụng câu đầu, nói về sức mạnh của ba quân, tức là sức mạnh của quân dân nhà Trần chống quân Nguyên Mông: “Tam quân, hổ, ngưu”.
Tam quân (Tiền quân, Trung quân, Hậu quân) là chỉ quân đội nhà Trần, tướng sĩ một lòng như cha con (cha con) nên tạo nên sức mạnh to lớn, mạnh như hổ. Nhiều con hổ). Sức mạnh đó có thể lấn át ngôi sao Kim Ngưu. Có bản dịch “Ngưu thôn Tề” là “Trâu nuốt chửng”. Tôi ngờ rằng, “Trâu nuốt chửng” mặc dù cũng thể hiện sức mạnh to lớn nhưng chưa tương xứng với tầm vóc của một đội quân đông đảo và thiện chiến như quân đội Đại Việt thời Trần.
Phải là “Tam quân hùng hổ như hổ, có thể áp đảo sao Kim Ngưu và nuốt chửng sao Kim Ngưu”. Như vậy, hình ảnh người lính cụ thể đã được nâng lên thành biểu tượng của niềm tự hào bất khuất sánh với tầm vóc của đất nước, đồng thời hình ảnh đất nước cũng được so sánh với tầm vóc của vũ trụ. Đó là sự liên kết, liên kết, hoà quyện, thống nhất của các hình tượng, hình tượng thơ trong một chỉnh thể nghệ thuật, thể hiện hào khí hào hùng của một thời đại vẻ vang. Hai câu thơ đầu cho thấy niềm tự hào của tác giả về sức mạnh quân dân của mình đã lên đến đỉnh điểm.
Hai dòng cuối của bài thơ, giọng điệu lại như chùng xuống, bộc lộ những suy tư trăn trở.
Người đàn ông vẫn chưa trả xong nợ công
Thật xấu hổ khi nghe người ta kể câu chuyện về Vũ Hầu.
(Nam nhi liễu công danh tả/ Tử nghe thuyết Vũ Hầu).
“Nam”, nam, có nghĩa là con trai. Quan niệm của người xưa, con người sinh ra trên đời phải có chí lớn. “Làm trai sống trong trời đất/ Phải có tên với sông núi” (Nguyễn Công Trứ). Tất nhiên, chữ “danh” ở đây phải được hiểu là “công danh”, tức là “danh lớn”, danh chính ngôn thuận, trước hết là phục vụ lợi ích cộng đồng chứ không phải là danh tiếng vụn vặt của thiên hạ. Kẻ cơ hội bẩn thỉu.
Đối với tác giả bài thơ này, người chưa trả xong nợ công, nghĩa là chưa trả xong nợ nước. Bổn phận và trách nhiệm của con người sinh ra trên đời là phải trả nợ non sông. Điều đó có nghĩa là “Mục tiêu” (công đức) “Danh tiếng” (danh tiếng), công đức và danh tiếng, là món nợ phải trả. Nhưng ở đây là “một người mang tiếng có công”, tức là chưa trả hết món nợ lớn đó với đất nước, thì đó là cả một ý thức cao cả, một sự cảm nhận sâu sắc về trách nhiệm và bổn phận thiêng liêng. tinh thần của một người quân tử chính trực, theo quan niệm tích cực của Nho giáo. Điều này cho thấy, Phạm Ngũ Lão tuy xuất thân từ một nông dân nghèo, thuộc tầng lớp thấp, nhưng từ khi trở thành bề tôi thân tín của Hưng Đạo Đại Vương, ông đã được rèn luyện nhiều hơn về văn hóa, có điều kiện phát huy tài năng của mình. Hội được thăng tiến rực rỡ, trở thành nhà thơ thực thụ.
Câu 3 bắc cầu câu 4: “Diệu thính vũ hầu truyền thuyết” (Thật xấu hổ khi nghe người ta kể chuyện Vũ Hầu).
Vậy “Võ Hầu” là ai và có công danh gì mà tác giả phải xấu hổ khi nghe người ta kể chuyện về mình? Đó chẳng phải là Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh thời Tam Quốc bên Tàu sao? Từ trong túp lều tranh, Khổng Minh được Lưu Bị, hậu duệ nhà Hán, mời sang giúp quân sư. Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán (Thục Hán), được phong làm Ngô Lương Hầu, dân gian quen gọi Khổng Minh Gia Cát Vũ Hầu. Đó là một nhân vật kiệt xuất trong sử sách Trung Hoa.
Một người có chí lớn, ai lại không muốn mang tiếng như vậy? Một người như Phạm Ngũ Lão, dù đã nhiều năm theo Hưng Đạo Vương đánh đuổi quân Nguyên Mông xâm lược, cũng lập được công danh lừng lẫy, nhưng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu vẫn cảm thấy xấu hổ. Thật là tủi hổ và hổ thẹn, của một nhân cách lớn, một chí lớn, một khát vọng lớn vươn tới đỉnh cao của một bậc quân tử chính trực.
Thơ văn của cha ông ta thời Trung đại cũng thấy nhiều chữ “thẹn” như Chu Văn An, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích, Lý Tử Tấn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v.v. trong đó có Nguyễn Khuyến chẳng hạn… “Thẹn thùng” được diễn đạt như một uyển ngữ, vừa là tâm trạng, vừa là thái độ và trong đó ngầm gửi gắm thông điệp về ý chí của cá nhân con người với những cung bậc, màu sắc khác nhau. màu sắc khác nhau, có thể tạo nên những cung bậc cảm xúc mà nội dung phong phú.
Bài Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão có thể coi là một trong những áng thơ đặc sắc của thời Lý – Trần, mang nhiệt huyết Đông A và tinh thần Đại Việt. Ở đây, con người cá nhân đã trở thành con người biểu tượng của thời đại, của đất nước, mang tầm vóc vũ trụ vĩ đại. Đó là sự hòa quyện của tâm hồn và ý chí của cả một dân tộc trong một thời khắc chói lọi của lịch sử. Văn chương có thể làm cho con người lớn hơn, có thể góp phần làm cho đất nước trở nên vĩ đại và bất tử. “Thuận mãi” là bài thơ rất ngắn mà tình thì rất dài, chắc sẽ truyền mãi!…
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục” state=”close”]
Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục
Hình Ảnh về: Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục
Video về: Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục
Wiki về Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục
Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục -
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Trong số các tướng tài của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão nổi bật là một danh tướng văn võ song toàn, bách chiến bách thắng. Về sau, Phạm Ngũ Lão được tín nhiệm, phong đến chức Điện Sử, tước Quan Nội Hầu. Ngũ Lão là người được đại ân, được Hưng Đạo Đại Vương gả con gái.
Phạm Ngũ Lão đã có công rực rỡ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trải qua các đời vua kế tiếp, ông cũng từng làm tướng dẹp Nam và Ai Lao (Lào), lần nào cũng chiến thắng vẻ vang.
Con cháu Phạm Ngũ Lão tiếp tục làm tướng. Cuối đời Trần, con thứ năm của Phạm Ngũ Lão là Phạm Nhữ Dực làm tướng tiên phong đánh Chiêm Thành. Thừa thắng, Phạm Nhữ Dực tiếp tục trấn thủ vùng đất này.
Tranh chân dung danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Thời vua Lê Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão cũng có một người chắt là tướng tiên phong, dẫn quân đánh thành Đồ Bàn, kinh đô của nước Chiêm Thành, rồi làm Tổng đốc ở đây. Khi Chiêm Thành bị tiêu diệt, vị tướng tiên phong của dòng dõi Phạm Ngũ Lão đã định cư ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và lập nên họ Phạm ở đây cho đến ngày nay. Miếu tổ vẫn còn, đầy đủ sắc phong từ đời vua Lê Thánh Tông.
Nghệ Hoài
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam hổ quân ở thôn ngưu.
Nam trí liễu công danh,
Tu nghe thuyết dân gian Vũ Hầu.
Dịch:
TỪ VỰNG
Cầm ngọn giáo băng qua thị trấn mấy mùa thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng lấn át cả sao Kim Ngưu.
Người đàn ông vẫn chưa trả hết nợ công,
Thật xấu hổ khi nghe người ta kể câu chuyện về Vũ Hầu.
Dịch thơ:
Cầm ngang ngọn giáo, giữ lấy non sông
Át chủ bài Kim Ngưu, tam quân cao ngất trời.
Người đàn ông đáng kính là nhút nhát,
Hãy nghe Gia Cát Lượng giúp nhà Hán xưa!
(Vũ Bình Lục) dịch bệnh)
Bài thơ chữ Hán thất ngôn tứ tuyệt, chúng tôi dịch ra thể thơ lục bát truyền thống của Việt Nam, câu đầu đã phải lược bỏ ý trải mấy mùa thu (cáp thu), nhưng nghĩ lại cũng chẳng làm được gì nhiều. gây hại cho nội dung. nội dung của bản gốc.
Cầm giáo ngang trấn giữ núi sông trải mấy mùa thu (Hoàng sóc giang sơn vạn niên). Câu đầu hay ở chữ Hoành sóc, nghĩa là “Cầm ngang ngọn giáo”. Hãy tưởng tượng một chiến binh mặc áo giáp, đội mũ sắt, hai tay cầm một cây giáo dài, hai chân hơi dang rộng trong tư thế mạnh mẽ, vững vàng, hiên ngang giữa đất trời, che chở cho núi sông, bờ bến. nươc Nha. Không phải đôi lần, mà đã “trải qua mấy mùa thu”, tức là mấy năm rồi, vẫn hiên ngang như thế (cáp thu). Đây là hình ảnh của tác giả, của dũng tướng Phạm Ngũ Lão, nhưng cũng là hình ảnh của người lính thời Trần, như khắc vào trời xanh tầm vóc của người chiến sĩ mang tầm vóc của núi rừng Đại Việt và vươn tầm vũ trụ. . Vì vậy, “Hoàng sóc” dịch ra là “Múa giáo”, vừa không sát khí, vừa sợ làm mất đi tư thế oai hùng của hình tượng chiến binh.
Cảnh Phạm Ngũ Lão mải mê đan sọt mà không biết vua sắp đến.
Câu hai, lợi dụng câu đầu, nói về sức mạnh của ba quân, tức là sức mạnh của quân dân nhà Trần chống quân Nguyên Mông: “Tam quân, hổ, ngưu”.
Tam quân (Tiền quân, Trung quân, Hậu quân) là chỉ quân đội nhà Trần, tướng sĩ một lòng như cha con (cha con) nên tạo nên sức mạnh to lớn, mạnh như hổ. Nhiều con hổ). Sức mạnh đó có thể lấn át ngôi sao Kim Ngưu. Có bản dịch “Ngưu thôn Tề” là “Trâu nuốt chửng”. Tôi ngờ rằng, “Trâu nuốt chửng” mặc dù cũng thể hiện sức mạnh to lớn nhưng chưa tương xứng với tầm vóc của một đội quân đông đảo và thiện chiến như quân đội Đại Việt thời Trần.
Phải là “Tam quân hùng hổ như hổ, có thể áp đảo sao Kim Ngưu và nuốt chửng sao Kim Ngưu”. Như vậy, hình ảnh người lính cụ thể đã được nâng lên thành biểu tượng của niềm tự hào bất khuất sánh với tầm vóc của đất nước, đồng thời hình ảnh đất nước cũng được so sánh với tầm vóc của vũ trụ. Đó là sự liên kết, liên kết, hoà quyện, thống nhất của các hình tượng, hình tượng thơ trong một chỉnh thể nghệ thuật, thể hiện hào khí hào hùng của một thời đại vẻ vang. Hai câu thơ đầu cho thấy niềm tự hào của tác giả về sức mạnh quân dân của mình đã lên đến đỉnh điểm.
Hai dòng cuối của bài thơ, giọng điệu lại như chùng xuống, bộc lộ những suy tư trăn trở.
Người đàn ông vẫn chưa trả xong nợ công
Thật xấu hổ khi nghe người ta kể câu chuyện về Vũ Hầu.
(Nam nhi liễu công danh tả/ Tử nghe thuyết Vũ Hầu).
"Nam", nam, có nghĩa là con trai. Quan niệm của người xưa, con người sinh ra trên đời phải có chí lớn. “Làm trai sống trong trời đất/ Phải có tên với sông núi” (Nguyễn Công Trứ). Tất nhiên, chữ “danh” ở đây phải được hiểu là “công danh”, tức là “danh lớn”, danh chính ngôn thuận, trước hết là phục vụ lợi ích cộng đồng chứ không phải là danh tiếng vụn vặt của thiên hạ. Kẻ cơ hội bẩn thỉu.
Đối với tác giả bài thơ này, người chưa trả xong nợ công, nghĩa là chưa trả xong nợ nước. Bổn phận và trách nhiệm của con người sinh ra trên đời là phải trả nợ non sông. Điều đó có nghĩa là "Mục tiêu" (công đức) "Danh tiếng" (danh tiếng), công đức và danh tiếng, là món nợ phải trả. Nhưng ở đây là “một người mang tiếng có công”, tức là chưa trả hết món nợ lớn đó với đất nước, thì đó là cả một ý thức cao cả, một sự cảm nhận sâu sắc về trách nhiệm và bổn phận thiêng liêng. tinh thần của một người quân tử chính trực, theo quan niệm tích cực của Nho giáo. Điều này cho thấy, Phạm Ngũ Lão tuy xuất thân từ một nông dân nghèo, thuộc tầng lớp thấp, nhưng từ khi trở thành bề tôi thân tín của Hưng Đạo Đại Vương, ông đã được rèn luyện nhiều hơn về văn hóa, có điều kiện phát huy tài năng của mình. Hội được thăng tiến rực rỡ, trở thành nhà thơ thực thụ.
Câu 3 bắc cầu câu 4: “Diệu thính vũ hầu truyền thuyết” (Thật xấu hổ khi nghe người ta kể chuyện Vũ Hầu).
Vậy “Võ Hầu” là ai và có công danh gì mà tác giả phải xấu hổ khi nghe người ta kể chuyện về mình? Đó chẳng phải là Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh thời Tam Quốc bên Tàu sao? Từ trong túp lều tranh, Khổng Minh được Lưu Bị, hậu duệ nhà Hán, mời sang giúp quân sư. Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán (Thục Hán), được phong làm Ngô Lương Hầu, dân gian quen gọi Khổng Minh Gia Cát Vũ Hầu. Đó là một nhân vật kiệt xuất trong sử sách Trung Hoa.
Một người có chí lớn, ai lại không muốn mang tiếng như vậy? Một người như Phạm Ngũ Lão, dù đã nhiều năm theo Hưng Đạo Vương đánh đuổi quân Nguyên Mông xâm lược, cũng lập được công danh lừng lẫy, nhưng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu vẫn cảm thấy xấu hổ. Thật là tủi hổ và hổ thẹn, của một nhân cách lớn, một chí lớn, một khát vọng lớn vươn tới đỉnh cao của một bậc quân tử chính trực.
Thơ văn của cha ông ta thời Trung đại cũng thấy nhiều chữ “thẹn” như Chu Văn An, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích, Lý Tử Tấn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v.v. trong đó có Nguyễn Khuyến chẳng hạn… “Thẹn thùng” được diễn đạt như một uyển ngữ, vừa là tâm trạng, vừa là thái độ và trong đó ngầm gửi gắm thông điệp về ý chí của cá nhân con người với những cung bậc, màu sắc khác nhau. màu sắc khác nhau, có thể tạo nên những cung bậc cảm xúc mà nội dung phong phú.
Bài Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão có thể coi là một trong những áng thơ đặc sắc của thời Lý - Trần, mang nhiệt huyết Đông A và tinh thần Đại Việt. Ở đây, con người cá nhân đã trở thành con người biểu tượng của thời đại, của đất nước, mang tầm vóc vũ trụ vĩ đại. Đó là sự hòa quyện của tâm hồn và ý chí của cả một dân tộc trong một thời khắc chói lọi của lịch sử. Văn chương có thể làm cho con người lớn hơn, có thể góp phần làm cho đất nước trở nên vĩ đại và bất tử. “Thuận mãi” là bài thơ rất ngắn mà tình thì rất dài, chắc sẽ truyền mãi!…
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Trong số các tướng tài của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão nổi bật là một danh tướng văn võ song toàn, bách chiến bách thắng. Về sau, Phạm Ngũ Lão được tín nhiệm, phong đến chức Điện Sử, tước Quan Nội Hầu. Ngũ Lão là người được đại ân, được Hưng Đạo Đại Vương gả con gái.
Phạm Ngũ Lão đã có công rực rỡ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trải qua các đời vua kế tiếp, ông cũng từng làm tướng dẹp Nam và Ai Lao (Lào), lần nào cũng chiến thắng vẻ vang.
Con cháu Phạm Ngũ Lão tiếp tục làm tướng. Cuối đời Trần, con thứ năm của Phạm Ngũ Lão là Phạm Nhữ Dực làm tướng tiên phong đánh Chiêm Thành. Thừa thắng, Phạm Nhữ Dực tiếp tục trấn thủ vùng đất này.
Tranh chân dung danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Thời vua Lê Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão cũng có một người chắt là tướng tiên phong, dẫn quân đánh thành Đồ Bàn, kinh đô của nước Chiêm Thành, rồi làm Tổng đốc ở đây. Khi Chiêm Thành bị tiêu diệt, vị tướng tiên phong của dòng dõi Phạm Ngũ Lão đã định cư ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và lập nên họ Phạm ở đây cho đến ngày nay. Miếu tổ vẫn còn, đầy đủ sắc phong từ đời vua Lê Thánh Tông.
Nghệ Hoài
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam hổ quân ở thôn ngưu.
Nam trí liễu công danh,
Tu nghe thuyết dân gian Vũ Hầu.
Dịch:
TỪ VỰNG
Cầm ngọn giáo băng qua thị trấn mấy mùa thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng lấn át cả sao Kim Ngưu.
Người đàn ông vẫn chưa trả hết nợ công,
Thật xấu hổ khi nghe người ta kể câu chuyện về Vũ Hầu.
Dịch thơ:
Cầm ngang ngọn giáo, giữ lấy non sông
Át chủ bài Kim Ngưu, tam quân cao ngất trời.
Người đàn ông đáng kính là nhút nhát,
Hãy nghe Gia Cát Lượng giúp nhà Hán xưa!
(Vũ Bình Lục) dịch bệnh)
Bài thơ chữ Hán thất ngôn tứ tuyệt, chúng tôi dịch ra thể thơ lục bát truyền thống của Việt Nam, câu đầu đã phải lược bỏ ý trải mấy mùa thu (cáp thu), nhưng nghĩ lại cũng chẳng làm được gì nhiều. gây hại cho nội dung. nội dung của bản gốc.
Cầm giáo ngang trấn giữ núi sông trải mấy mùa thu (Hoàng sóc giang sơn vạn niên). Câu đầu hay ở chữ Hoành sóc, nghĩa là “Cầm ngang ngọn giáo”. Hãy tưởng tượng một chiến binh mặc áo giáp, đội mũ sắt, hai tay cầm một cây giáo dài, hai chân hơi dang rộng trong tư thế mạnh mẽ, vững vàng, hiên ngang giữa đất trời, che chở cho núi sông, bờ bến. nươc Nha. Không phải đôi lần, mà đã “trải qua mấy mùa thu”, tức là mấy năm rồi, vẫn hiên ngang như thế (cáp thu). Đây là hình ảnh của tác giả, của dũng tướng Phạm Ngũ Lão, nhưng cũng là hình ảnh của người lính thời Trần, như khắc vào trời xanh tầm vóc của người chiến sĩ mang tầm vóc của núi rừng Đại Việt và vươn tầm vũ trụ. . Vì vậy, “Hoàng sóc” dịch ra là “Múa giáo”, vừa không sát khí, vừa sợ làm mất đi tư thế oai hùng của hình tượng chiến binh.
Cảnh Phạm Ngũ Lão mải mê đan sọt mà không biết vua sắp đến.
Câu hai, lợi dụng câu đầu, nói về sức mạnh của ba quân, tức là sức mạnh của quân dân nhà Trần chống quân Nguyên Mông: “Tam quân, hổ, ngưu”.
Tam quân (Tiền quân, Trung quân, Hậu quân) là chỉ quân đội nhà Trần, tướng sĩ một lòng như cha con (cha con) nên tạo nên sức mạnh to lớn, mạnh như hổ. Nhiều con hổ). Sức mạnh đó có thể lấn át ngôi sao Kim Ngưu. Có bản dịch “Ngưu thôn Tề” là “Trâu nuốt chửng”. Tôi ngờ rằng, “Trâu nuốt chửng” mặc dù cũng thể hiện sức mạnh to lớn nhưng chưa tương xứng với tầm vóc của một đội quân đông đảo và thiện chiến như quân đội Đại Việt thời Trần.
Phải là “Tam quân hùng hổ như hổ, có thể áp đảo sao Kim Ngưu và nuốt chửng sao Kim Ngưu”. Như vậy, hình ảnh người lính cụ thể đã được nâng lên thành biểu tượng của niềm tự hào bất khuất sánh với tầm vóc của đất nước, đồng thời hình ảnh đất nước cũng được so sánh với tầm vóc của vũ trụ. Đó là sự liên kết, liên kết, hoà quyện, thống nhất của các hình tượng, hình tượng thơ trong một chỉnh thể nghệ thuật, thể hiện hào khí hào hùng của một thời đại vẻ vang. Hai câu thơ đầu cho thấy niềm tự hào của tác giả về sức mạnh quân dân của mình đã lên đến đỉnh điểm.
Hai dòng cuối của bài thơ, giọng điệu lại như chùng xuống, bộc lộ những suy tư trăn trở.
Người đàn ông vẫn chưa trả xong nợ công
Thật xấu hổ khi nghe người ta kể câu chuyện về Vũ Hầu.
(Nam nhi liễu công danh tả/ Tử nghe thuyết Vũ Hầu).
“Nam”, nam, có nghĩa là con trai. Quan niệm của người xưa, con người sinh ra trên đời phải có chí lớn. “Làm trai sống trong trời đất/ Phải có tên với sông núi” (Nguyễn Công Trứ). Tất nhiên, chữ “danh” ở đây phải được hiểu là “công danh”, tức là “danh lớn”, danh chính ngôn thuận, trước hết là phục vụ lợi ích cộng đồng chứ không phải là danh tiếng vụn vặt của thiên hạ. Kẻ cơ hội bẩn thỉu.
Đối với tác giả bài thơ này, người chưa trả xong nợ công, nghĩa là chưa trả xong nợ nước. Bổn phận và trách nhiệm của con người sinh ra trên đời là phải trả nợ non sông. Điều đó có nghĩa là “Mục tiêu” (công đức) “Danh tiếng” (danh tiếng), công đức và danh tiếng, là món nợ phải trả. Nhưng ở đây là “một người mang tiếng có công”, tức là chưa trả hết món nợ lớn đó với đất nước, thì đó là cả một ý thức cao cả, một sự cảm nhận sâu sắc về trách nhiệm và bổn phận thiêng liêng. tinh thần của một người quân tử chính trực, theo quan niệm tích cực của Nho giáo. Điều này cho thấy, Phạm Ngũ Lão tuy xuất thân từ một nông dân nghèo, thuộc tầng lớp thấp, nhưng từ khi trở thành bề tôi thân tín của Hưng Đạo Đại Vương, ông đã được rèn luyện nhiều hơn về văn hóa, có điều kiện phát huy tài năng của mình. Hội được thăng tiến rực rỡ, trở thành nhà thơ thực thụ.
Câu 3 bắc cầu câu 4: “Diệu thính vũ hầu truyền thuyết” (Thật xấu hổ khi nghe người ta kể chuyện Vũ Hầu).
Vậy “Võ Hầu” là ai và có công danh gì mà tác giả phải xấu hổ khi nghe người ta kể chuyện về mình? Đó chẳng phải là Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh thời Tam Quốc bên Tàu sao? Từ trong túp lều tranh, Khổng Minh được Lưu Bị, hậu duệ nhà Hán, mời sang giúp quân sư. Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán (Thục Hán), được phong làm Ngô Lương Hầu, dân gian quen gọi Khổng Minh Gia Cát Vũ Hầu. Đó là một nhân vật kiệt xuất trong sử sách Trung Hoa.
Một người có chí lớn, ai lại không muốn mang tiếng như vậy? Một người như Phạm Ngũ Lão, dù đã nhiều năm theo Hưng Đạo Vương đánh đuổi quân Nguyên Mông xâm lược, cũng lập được công danh lừng lẫy, nhưng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu vẫn cảm thấy xấu hổ. Thật là tủi hổ và hổ thẹn, của một nhân cách lớn, một chí lớn, một khát vọng lớn vươn tới đỉnh cao của một bậc quân tử chính trực.
Thơ văn của cha ông ta thời Trung đại cũng thấy nhiều chữ “thẹn” như Chu Văn An, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích, Lý Tử Tấn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v.v. trong đó có Nguyễn Khuyến chẳng hạn… “Thẹn thùng” được diễn đạt như một uyển ngữ, vừa là tâm trạng, vừa là thái độ và trong đó ngầm gửi gắm thông điệp về ý chí của cá nhân con người với những cung bậc, màu sắc khác nhau. màu sắc khác nhau, có thể tạo nên những cung bậc cảm xúc mà nội dung phong phú.
Bài Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão có thể coi là một trong những áng thơ đặc sắc của thời Lý – Trần, mang nhiệt huyết Đông A và tinh thần Đại Việt. Ở đây, con người cá nhân đã trở thành con người biểu tượng của thời đại, của đất nước, mang tầm vóc vũ trụ vĩ đại. Đó là sự hòa quyện của tâm hồn và ý chí của cả một dân tộc trong một thời khắc chói lọi của lịch sử. Văn chương có thể làm cho con người lớn hơn, có thể góp phần làm cho đất nước trở nên vĩ đại và bất tử. “Thuận mãi” là bài thơ rất ngắn mà tình thì rất dài, chắc sẽ truyền mãi!…
[/box]
#Nghĩ #thêm #về #bài #thơ #Thuật #hoài #của #Phạm #Ngũ #Lão #Tác #giả #Vũ #Bình #Lục
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Nghĩ thêm về bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão – Tác giả: Vũ Bình Lục bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Nghĩ #thêm #về #bài #thơ #Thuật #hoài #của #Phạm #Ngũ #Lão #Tác #giả #Vũ #Bình #Lục
Trả lời