GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, người tham gia xây dựng Luật Trồng trọt từ những ngày đầu đã có những nhận xét, san sớt về ý tưởng xây dựng và các quy định của luật này.
Thời kì qua, có nhiều ý kiến trái chiều về các quy định của Luật Trồng trọt, trong đó, nổi lên các ý kiến xung quanh danh mục cây trồng chính; cấp, cấp lại, gia hạn xác nhận giống cây trồng; chăn nuôi “vô chủ” hoặc xã hội hóa; tự thông báo lưu hành giống…
GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), một trong những người tham gia xây dựng Luật Trồng trọt từ những ngày đầu, đã trao đổi, san sớt ý kiến về việc xây dựng và điều chỉnh Luật về Trồng trọt. quy định của luật này.
Cần lấy ý kiến người dân về cây trồng chủ lực
Với cách tiếp cận của Luật, danh mục cây trồng chính cần được lấy ý kiến rộng rãi của số đông. Phải đưa ra lý do nên đưa cây trồng này vào danh mục cây trồng chính hay ko… Việc lấy ý kiến nhân dân sẽ giúp xây dựng danh mục cây trồng chính theo đúng ý thức của Luật, đúng quy định của pháp luật. yêu cầu của thực tiễn quản lý giống hiện nay.
Theo đó, số lượng, chủng loại giống đưa vào danh mục hoàn toàn “mở” và có thể cập nhật thường xuyên, tùy theo nhu cầu quản lý. Ngay cả lúc ý thức và tính tự giác của số đông đã đạt tới mức cao, chúng ta hoàn toàn có thể loại trừ giống ra khỏi danh mục, lúc đó chỉ còn lại việc bảo hộ và tự thông báo giống. Pháp luật ko cấm điều này. Quy định mở này sẽ ko làm cho Luật trở thành lỗi thời hoặc phải sửa đổi lúc yêu cầu quản lý giống đã thay đổi.
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng Luật Trồng trọt, lúc đầu dự kiến lồng ghép Chương bảo hộ giống cây trồng trong Luật Sở hữu trí tuệ vào Chương quản lý giống cây trồng do có nhiều thủ tục yêu cầu giống. như thủ tục đăng ký, khảo nghiệm DUS (cả xác nhận và bảo hộ giống đều phải do cùng một cơ quan thực hiện)… Việc tích hợp này sẽ giúp hạn chế thủ tục, chi phí cho chủ thể. muốn thực hiện cả hai mong muốn.
Tuy nhiên, qua thảo luận, Quốc hội đã phân tích, hướng dẫn văn bản dưới Luật, với yêu cầu thực hiện đúng quy định của Luật. Vì vậy, tại khoản 4 Điều 13 quy định việc cấp quyết định xác nhận lưu hành giống cây trồng được thực hiện đồng thời với việc cấp bằng bảo hộ nếu chủ sở hữu có yêu cầu và phục vụ các điều kiện vừa được xác nhận vừa được lưu hành. lưu hành và bảo hộ giống. Vì vậy, trong quá trình chỉ huy cũng cần nghiên cứu điều này.
Hiện chúng ta đang trong quá trình xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022, cần nghiên cứu kỹ quy định của 2 Luật để có thể lồng ghép một số thủ tục, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật. thống nhất, đơn giản hóa thủ tục, tránh tình trạng mỗi nơi quy định một kiểu sẽ khó cho người dân vận dụng.
Mở rộng xác nhận lưu hành giống cây trồng của Luật là rất rõ ràng
Về việc cấp, cấp lại, gia hạn xác nhận lưu hành giống cây trồng, có thể có một số ý kiến trái chiều về việc gia hạn xác nhận lưu hành giống cây trồng, tuy nhiên đây là những ý kiến tư nhân. Nội dung này đã được Ban soạn thảo và Tổ thẩm tra của Quốc hội thảo luận kỹ nên đã quy định rất rõ tại khoản 2, 4 Điều 15 và khoản 1 Điều 85.
Đối với giống cây trồng, sự thay đổi về tính tương đồng, tính ổn định, trị giá canh tác và trị giá sử dụng trong quá trình sử dụng là hoàn toàn có thể xảy ra do hai nguyên nhân. Thứ nhất là sự chuyển đổi do đột biến của cây trồng (tự thoái hóa) lúc có tác động của tác nhân gây đột biến, thụ phấn chéo, v.v.
Thứ hai, giống có thể bị mất đi các đặc tính quý do tác động của các yếu tố bên ngoài, ví dụ như mất khả năng chống chịu sâu bệnh, bệnh do sâu bệnh gây ra, bệnh phát sinh từ dòng, chủng mới hoặc dạng sinh vật học có tác dụng độc hại. yếu tố cao hơn. Vì vậy, để kiểm soát và ngăn chặn sớm những chuyển đổi có thể tác động tiêu cực tới sản xuất và môi trường, việc mở rộng xác nhận giống là cần thiết.
Việc khuyến nông nhằm chủ động phát hiện, ngăn chặn, hạn chế các nguy cơ có thể tác động xấu tới sản xuất và môi trường cũng như sức khỏe con người, đặc thù là yếu tố nguy cơ từ sự lây lan của mầm bệnh. dịch hại vì nó ko chỉ làm giảm năng suất, chất lượng cây trồng nhưng mà còn làm tăng mức độ tích lũy quần thể của dịch hại, yêu cầu phải tăng sức ép sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (tăng số lần, liều lượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật). dụng, thậm chí phải dùng thêm các loại thuốc độc hại), gây tác động xấu tới môi trường và sức khỏe con người. Đây cũng là nội dung được quy định rõ trong Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật.
Ngoài ra, chúng ta cần rà soát để đảm bảo rằng trong cùng một thời kỳ giống cây trồng phải đạt yêu cầu chất lượng như nhau. đã có trong lịch sử và vẫn còn tồn tại, tương tự là ko công bình và ko đảm bảo về mặt khoa học, có thể chính giống cũ tạo mầm bệnh truyền bệnh cho giống mới.
Lúc gia hạn xác nhận lưu hành giống cây trồng, Luật ko yêu cầu khảo nghiệm đầy đủ các tính trạng khác lạ, tương đồng, ổn định (DUS) và trị giá canh tác, sử dụng nhưng mà chỉ yêu cầu khảo nghiệm đối chứng để giám định khả năng chống chịu với một số dịch hại và yếu tố bất lợi. . Quy định này đã cân nhắc rất kỹ tính khả thi bởi nếu phải rà soát lại toàn thể sẽ rất tốn kém và mất thời kì của DN.
Quy định về thử nghiệm có kiểm soát cũng rất linh hoạt. Khoản 2 Điều 18 chỉ xác định đây là hình thức khảo nghiệm để phân biệt với khảo nghiệm hiện trường. Tất cả các nội dung như tiêu chí rà soát (rà soát cái gì), phương pháp như thế nào… đều để ngỏ cho quy định. quy định trong TCVN.
Tương tự, nếu cơ quan quản lý và số đông nhận thấy ở thời khắc ngày nay chưa có loài dịch hại hoặc tiêu chí nào cần khảo nghiệm do tính cấp bách hoặc hạn chế về trình độ công nghệ thì ko nhất quyết phải đưa vào khảo nghiệm nhưng mà thực hiện khảo nghiệm đối chứng. cũng ko cần thiết.
Ví dụ, lúc xây dựng TCVN quy định về trị giá canh tác và sử dụng của cây cam, có ý kiến cho rằng nên quy định giới hạn đối với bệnh vàng lá gân xanh vì bệnh này rất quan trọng. Tuy nhiên, Ban soạn thảo cho rằng, bệnh tuy gây hại nặng nhưng khoa học chưa có giải pháp phòng trừ hiệu quả nên chỉ yêu cầu khảo nghiệm để thông báo, ko yêu cầu hạn chế.
Vì sao làm điều đó trong điều kiện kiểm soát? Họ đều biết rằng việc kiểm định, giám định khả năng chống chịu của các giống cây trồng đối với một loại sinh vật gây hại hoặc với các điều kiện bất lợi (hạn, mặn, ngập úng…) sẽ rất khó khăn và ko thể đảm bảo độ xác thực lúc thực hiện ngoài đồng ruộng, bởi vì chúng ta phải tạo đủ áp suất (mức độ sâu mọt cao), nền đều và phải duy trì trong suốt quá trình thử nghiệm.
Nó cũng quan trọng để được thực hiện trong nhiều điều kiện sinh thái. Được thực hiện trong điều kiện có kiểm soát (về điều kiện sinh thái như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng…) hoặc các yếu tố thí nghiệm có kiểm soát như thành phần chủng sâu hại, mật độ sâu hại hoặc chỉ số bệnh, độ mặn, hạn hán, ngập úng…) sẽ đảm bảo mức độ xác thực cao hơn và chỉ cần thực hiện tại một vị trí cũng có thể cho kết quả tương tự. Vì lý do đó, khoản 1 của Điều 19 chỉ yêu cầu các thử nghiệm có kiểm soát chỉ được thực hiện tại một vị trí. Điều này cũng nhằm đơn giản hóa và hạn chế chi phí cho số đông nhưng mà vẫn đảm bảo tính khoa học.
Nhớ để nguồn bài viết này:
Luật Trồng trọt rất ‘mở’, cần hướng dẫn cho đúng của website thpttranhungdao.edu.vn
Phân mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Luật #Trồng #trọt #rất #mở #cần #hướng #dẫn #cho #đúng
Trả lời