1. Mô hình kinh tế xã hội là gì?
Xã hội là tổng hòa của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích đời sống xã hội, các nhà cổ điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra khái niệm hình thái kinh tế – xã hội.
Theo Marx Lênin, hình thức kinh tế – xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định, với một loại quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội, sự liên kết đó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một mức độ nhất định. kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên các mối quan hệ sản xuất đó. Như vậy, cơ cấu hình thái kinh tế – xã hội theo khái niệm trên bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục thiên nhiên và năng lực thực tiễn của con người. Lực lượng sản xuất tạo ra tư liệu sản xuất cho xã hội, từ lực lượng sản xuất này sẽ nảy sinh quan hệ sản xuất, đó là quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất. Trong số các quy luật khách quan điều chỉnh sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định. Từ lực lượng sản xuất sẽ hình thành một tổng thể là kiến trúc thượng tầng bao gồm tất cả các quan điểm tư tưởng xã hội, các thể chế tương ứng và các quan hệ nội tại của kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở đó. không tồn tại riêng biệt với nhau mà tương tác, tương tác với nhau và phát sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
Với quan niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã làm nảy sinh một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã hội, tạo điều kiện cho việc phân tích đời sống với tất cả sự phức tạp của nó, để chỉ ra những mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở của nó. lĩnh vực. , biểu thị quy luật vận động và phát triển của nó như một quá trình lịch sử – tự nhiên. Hình thái kinh tế – xã hội tổng quát bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt có những thế mạnh riêng và phải dựa vào những thế mạnh đó để tìm tòi, khám phá và phát triển hơn nữa.
Hình thức kinh tế xã hội trong tiếng Anh là “Hình thức kinh tế xã hội”.
2. Năm hình thức kinh tế xã hội:
Xã hội loài người đã biết đến 5 hình thái kinh tế – xã hội tương ứng với 5 phương thức sản xuất: hình thái kinh tế – xã hội công xã nguyên thủy, hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Hình thức kinh tế và xã hội của chủ nghĩa cộng sản.
2.1. Hình thức kinh tế xã hội cộng đồng nguyên thủy:
Đây là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên và nguyên thủy nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc điểm nổi bật của hình thức này là: Vật liệu lao động thô sơ, chủ yếu sử dụng các đồ vật bằng đá và thân cây làm công cụ lao động; Cơ sở kinh tế là quyền sở hữu chung về tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động; Đó là một xã hội không có giai cấp, Nhà nước và pháp luật; Quan hệ sản xuất là quan hệ bình đẳng, cùng hợp tác và cùng hưởng lợi.
– Hình thức nô lệ về kinh tế – xã hội: Khi hệ thống thị tộc tồn tại trong cộng đồng nguyên thủy tách ra và hình thành xã hội có Nhà nước và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người hình thành nên hình thức kinh tế – xã hội nô lệ. Đặc điểm của hình thức này là thay thế chế độ sở hữu chung (sở hữu chung) về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu tư nhân của chủ sở hữu và nô lệ, thay thế xã hội không giai cấp bằng xã hội có các giai cấp đối kháng (sở hữu). chế độ nô lệ ), thay thế quyền tự trị của thị tộc bằng trật tự nhà nước của giai cấp sở hữu nô lệ. Giai cấp chiếm hữu nô lệ sử dụng bộ máy thống trị của mình để bóc lột sức lao động của nô lệ một cách tàn bạo, nô lệ trong xã hội này được coi là công cụ biết nói. Hình thức này cũng tạo ra loại trạng thái đầu tiên: trạng thái chủ-nô lệ.
2.2. Hình thái kinh tế xã hội phong kiến:
Giai cấp thống trị mới ở hình thức này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương thức bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột thuê đất – nông dân được giao đất, cày ruộng, khi thời hạn đến thì nộp thuế cho địa chủ. . So với hình thức nô lệ, hình thức lao động thời phong kiến tiến bộ hơn rất nhiều, dù phải nộp thuế nhưng nông dân vẫn giữ được của cải dư thừa. Đồng thời, trong xã hội xuất hiện nhiều tầng lớp, giai cấp mới.
2.3. Hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa:
Xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức hình thành hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ 17. Adam Smith (1723-1790) là người làm được điều vĩ đại nhất. góp phần xây dựng hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Đặc điểm cơ bản của hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa: Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do thương mại được pháp luật bảo vệ và coi là quyền con người thiêng liêng; Cá nhân sử dụng tài sản riêng để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do: mọi sự phân phối của cải đều thông qua quá trình mua bán của các chủ thể tham gia quá trình kinh tế; Gắn với sản xuất công nghiệp có năng suất lao động cao; Bản chất của “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà lao động tạo ra khi nhà tư bản thuê và sử dụng lao động.
2.4. Hình thức kinh tế xã hội của chủ nghĩa cộng sản:
Trên cơ sở phân tích trực tiếp những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đầu, đặc biệt là những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dựa trên quan điểm của phong trào công nghiệp Nhân, Marx và Engels đã đưa ra những dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20. tương lai, đó là tất yếu của việc chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội. Marx và Engels cũng từng lưu ý về việc xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản: “Chủ nghĩa Cộng sản không phải là một nhà nước phải được tạo ra, không phải là một lý tưởng mà thực tế phải tuân theo. Chúng ta gọi Chủ nghĩa Cộng sản là một phong trào hiện thực xóa bỏ mọi điều kiện hiện tại. Các điều kiện của phong trào đó là sự kết quả của cơ sở hiện có.
Học thuyết của Mác, Ăng-ghen và đặc biệt là Lênin đã giúp Đảng và nhân dân ta có những bước đi thắng lợi mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế trong nhận thức vận dụng luật này. Một trong những bất cập lớn nhất là chúng ta chưa nhìn nhận đúng đắn quy luật này mà còn chủ quan, sẵn sàng trong những năm trước 1986. Trước năm 1986, ở Việt Nam tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước, trong khi quan hệ quản lý là hành chính – . quan liêu theo kiểu bao cấp, quan hệ phân phối mang tính quân sự, dẫn đến quan hệ sản xuất lạc hậu, không phù hợp, cản trở sự phát triển của sản xuất. Tóm lại đây là những lỗi chủ quan và cố ý. Thực tế đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại Chủ nghĩa xã hội và thực hiện đổi mới toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội.
Mỗi hình thức kinh tế – xã hội tồn tại trong một thời kỳ lịch sử nhất định, phản ánh một chế độ lịch sử nhất định. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi những quy luật chung mà còn chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hóa… Vì vậy, lịch sử phát triển của loài người vô cùng phong phú và đa dạng. Có những dân tộc trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hoặc nhiều hình thức đó. Tuy nhiên, sự thiếu sót này cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử – tự nhiên chứ không theo ý muốn chủ quan.
Bạn thấy bài viết Hình thái kinh tế xã hội là gì? 5 hình thái kinh tế xã hội? có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Hình thái kinh tế xã hội là gì? 5 hình thái kinh tế xã hội? bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Kiến thức chung
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời