Ba nhà thơ Phùng Cung, Phùng Quán, Phùng Khắc Bắc vừa được một nhà thơ họ Phùng thứ tư là Phùng Văn Khải tạo nên một cuộc gặp gỡ thú vị. Họ giống và khác nhau về tuổi tác, quê quán, địa vị xã hội và phong cách thơ. Có lẽ vì thế mà sự trùng hợp này ở họ gợi lên biết bao suy tư, cảm xúc về một địa lý nhân văn, về nhân cách và thi ca, về những số phận thơ ca, về một dòng chảy văn chương tưởng như bất tận. .
Sơn Tây – Xứ Đoài Xưa, bao gồm Vĩnh Phúc và một phần Phú Thọ, là nơi sinh (Yên Lạc) và quê tổ cũng là quê nuôi (Sơn Tây) của Phùng Cung. Đây là vùng đất đá ong (lau khô nhiều nước mắt – Quang Dũng) lồng lộng, trời xanh thăm thẳm mây trắng lững thững lên đỉnh Ba Vì. Đất trời tạo nên nét cổ kính xứ Đoài. Mây trắng là con đẻ của đất trời, là linh hồn của xứ Đoài. Và Phùng Cung là một nhân vật điển hình. Phùng Khắc Bắc sinh ra ở làng Bùng, Thạch Thất (Nhà đá, tức là xây bằng đá ong), Sơn Tây. Dù sau này theo gia đình về Bắc Giang, một vùng đất đồi núi tương tự như Sơn Tây, nhưng nét trầm mặc, cô quạnh và thâm trầm của “vùng đất sỏi vàng” anh vẫn giữ được. Còn Phùng Quán, ông sinh ra ở Huế, nhưng những năm cuối đời – Nhân gian, ông trồng mía và làm thơ ở Thái Nguyên, một vùng trung du khác. Thơ Phùng Quán vừa có chất đồi núi của quê hương, vừa có chất đầm phá của quê hương.
Tuy không phải là họ hàng đầu của Việt Nam nhưng họ Phùng để lại nhiều dấu son trong lịch sử nước nhà. Đầu tiên phải kể đến Phùng Thanh Hóa, cánh tay phải của Lý Bí (Thành đình làng Ngọc Than, Quốc Oai, di tích lịch sử cấp quốc gia), người đã khởi nghĩa đánh nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân. . Vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Rồi đến Phùng Hưng, được nhân dân tôn là Bố Cái Đại Vương. Sau đó Phùng Tá Chu là người có công lớn giúp Trần Thủ Độ dựng nên nhà Trần. Cuối cùng là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, trạng nguyên, danh thần thời Lê Trung Hưng, từng cầm quân, đi sứ làm rạng danh cả nước. Ngoài ra, ông lão còn sống với nhiều thế hệ – tương truyền là tổ của nhiều nghề như dệt vải, trồng tương, mè. Ngoài tứ trụ nói trên của họ Phùng còn có nhiều nhân tài nổi tiếng khác như Phùng Phúc Kiều, Phùng Đốc, Phùng Hữu Hiếu, Phùng Ông, Phùng Trạm… Các nhà thơ như Phùng Cung quê ở Sơn Tây , người không bộc trực cũng là nhà thơ. họ Phùng Hưng, còn Phùng Khắc Bắc rõ ràng là hậu duệ của Trạng Bùng. Riêng dòng họ Phùng của Phùng Quán ở Huế thì chưa truy được nguồn gốc dòng họ từ đâu, nhưng chắc ít nhiều liên quan đến nơi phát tích. Dù cách xa nhau về không gian và thời gian nhưng dòng máu tổ tiên không thể không chảy trong huyết quản của ba nhà thơ này.
Nhà thơ Phùng Cung.
Phùng Cung tham gia khởi nghĩa tháng Tám. Ông làm chủ tịch xã Hồng Châu, rồi lên Việt Bắc vào Hội Văn nghệ Việt Nam làm cái nghề “tiếp lửa cho các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… “Chứng kiến sự thoái hóa của loài người. Sự phá cách trong tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ và sự mai một của các loại hình nghệ thuật dân tộc như tuồng, hát bội, nghề thủ công truyền thống… nên khi hòa bình lập lại, ông đã viết truyện ngắn Con ngựa già chúa Trịnh cho in trên báo Nhân Văn năm 1956 và nhiều truyện ngắn khác chưa in, khi ở trong tù, lúc đầu ông cũng ngâm thơ ngắn, nhưng không nhớ nổi, đành chuyển sang ngâm thơ, để bảo vệ tiếng nói cũng là hỏng.Tập thơ Viễn cảnh buổi đêm là kết quả của việc thu hồi này. Phùng Cung, vì thế, trong hoàn cảnh nào cũng sống để viết để bảo vệ nhân cách trí thức và/hoặc nền văn hóa dân tộc của mình.
Nhà thơ Phùng Quán.
Phùng Quán cũng sinh ra trong một gia đình cách mạng. Năm 16 tuổi, ông tự gia nhập Vệ quốc đoàn với vai trò liên lạc, sau đó hoạt động nghệ thuật. Ông được gán cho là Nhân Loại khi viết những bài thơ khẳng định nhân cách, đạo đức con người như: lời của mẹ hoặc Chống tham ô lãng phí. Sau này, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu, ông vẫn giữ nguyên lý tưởng cách mạng ban đầu và một lòng chung thủy với thơ ca.
Nhà thơ Phùng Khắc Bắc.
Phùng Khắc Bắc thuộc thế hệ sau, nhưng thời đại anh sống không phải không cho lớp trẻ những lựa chọn. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, bố mẹ anh muốn cho con học đại học nhưng anh vẫn quyết tâm tòng quân đánh Mỹ cứu nước. Ở chiến trường B2, ông bị nhiễm chất độc da cam. Năm 1977, ông trở ra Bắc, làm việc ở Ban Tuyên huấn, học Trường Văn khoa Nguyễn Du, rồi chuyển sang Hội Nhà văn làm công tác hành chính. Trong khi làng nghệ thuật trăm hoa đua nở, trăm nhà nổi tiếng, văn nhân như bờ tre ấm bụi, thì ông sống lặng lẽ, lặng lẽ viết, không vì danh, cũng không để mưu sinh. Chỉ đến khi ông mất, nhà văn Xuân Thiều Lục Điếm mới biết ông có một tập truyện ngắn, một tiểu thuyết và một tập thơ.
Như vậy, ba nhà thơ họ Phùng đều là những con người có nhân cách rất cao. Nó không chỉ thể hiện trong cuộc sống, trong cuộc sống đời thường mà trước hết là ở sự trung thành với lý tưởng sáng tác của mình. Trong trường hợp này, cá tính sẽ tạo ra phong cáchmà trong đó là bài thi, Ecriture. Tính cách của họ, theo những cách tuyệt vời, giống nhau. Đó chính là yêu thơ, sống để làm thơ và làm thơ để sống: Có những lúc nản lòng/ Tôi giơ cao câu thơ (Phùng Quán). Khi rơi vào trường hợp mất tư cách công dân, chỉ còn là phó thường dân, Phùng Cung, Phùng Quán chỉ còn một con đường làm thơ bằng tiếng nói, bằng ngôn ngữ của mình, để tự khẳng định mình, thơ lúc này như một mục tiêu, một mục tiêu. lý do để sống. Thơ bây giờ, không tính từ, thơ sạch, nhưng để đạt được chất thơ độc đáo này, chúng ta phải sáng tạo và đổi mới. Phùng Khắc Bắc cũng vậy. Sống ở Hội Nhà văn (như Phùng Cung ở Hội Văn nghệ), chứng kiến những mùa thơ hợp tác được mùa bội thu, ông phải đi tìm thơ ở trang trại phần trăm của mình. Như vậy, nếu đổi mới, sáng tạo là con đường chung của cả Phùng Cung, Phùng Quán, Phùng Khắc Bắc thì nhà thơ nào cũng có. cách Sáng tạo của riêng bạn.
Nhà thơ Phùng Cung và Nhà thơ Hoàng Cầm (bìa phải).
Phùng Cung trong Viễn cảnh buổi đêm là sáng tạo thư. Những người bạn “đồng trang lứa trên trời” như Trần Dần, Lê Đạt, những nhà thơ coi chữ là tiên của thơ, tự gọi mình là âm tiết (Lê Đạt), làm thơ là làm việc từ, gây rắc rối (Trần Dần), Phùng Cung không khỏi chịu ảnh hưởng của quan niệm chữ nghĩa này. Tuy nhiên, Phùng Cung có hướng nghiên cứu riêng, khác cả Dân và Đạt. Nếu Trần Dần ép từng chữ trong bài thơ của mình, anh ấy sẽ phải ý nghĩa mớikhác với chủ nghĩa tiêu dùng, từ điển nghĩa, nếu Lê Đạt buộc từng chữ trong thơ phải Nó có nhiều ý nghĩa cùng một lúcđể mở rộng không gian thẩm mỹ của thơ, Phùng Cung đã làm khảo cổ học, khai quật được những lời quê sinh ra từ đầu núi. Thông qua từ quê hương Tìm thấy quê hương, vùng đất Sơn Tây xưa nay có thể đã được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn còn lưu giữ từ hóa thạch trong tâm thức của người làng nơi đây. Thơ của Viễn cảnh buổi đêm là đánh thức con chữ, đánh thức ký ức dân tộc, đánh thức lương tri văn hóa dân tộc. Bởi vậy, thơ Phùng Cung hiện đại, nhưng khác với thơ hiện đại-hiện đại của Trần Dần, Lê Đạt, Thanh Tâm Tuyền, thơ Phùng Cung, Tô Thùy Yên là hiện đại-cổ điển.
PGS. PGS.TS Đỗ Lai Thúy tại lễ trao tặng sách.
Thơ Phùng Quán không tìm chữ mà tìm ý, nghĩ, ý. Ngôn từ trong thơ Phùng Quán, vì thế, tự nó không có giá trị gì, không sinh ra tư tưởng mà phục vụ cho tư tưởng. Thơ anh là thơ Diễn đàn. Bạn có thể đọc to cho bạn bè bên mâm rượu, bên Ngắm sóng Hồ Tây, đọc to những buổi bình thơ, đàm đạo thơ trong khán phòng, thậm chí đọc to cho đám đông trong phòng chờ tàu. Cũng như Hoàng Cầm, Phùng Quán có giọng đọc/ngâm thơ rất hay nên rất thích đọc trước đám đông. Thơ muốn vậy phải tư duy rõ ràng, súc tích, ngôn từ hấp dẫn, âm vang chứ không đa nghĩa. Thơ Phùng Quán là thơ của nhân dân. Như ông nói: “Nếu đi với dân thì thơ không thể khác được”.
Phùng Khắc Bắc ngay từ đầu đã làm thơ tự do, không như đa số phải trải qua thể thơ truyền thống và thơ mới. Điều này phần nào chứng tỏ trong anh một suy nghĩ hỗn độn, giông bão, muốn bùng nổ. Đó là suy nghĩ của những người đã từng trải qua chiến tranh, của những người đã từng đối mặt với nhiều cái chết vì mang trong mình mầm mống của sự chết. Vì vậy, ông không có niềm vui hời hợt, phong trào mà có nỗi buồn riêng do có cái nhìn sâu sắc về bản chất cuộc sống và con người. Không, không thể viết một kiệt tác Ngày đầu tiên của hòa bình.
PGS. PGS.TS Đỗ Lai Thúy tại lễ trao tặng sách.
Trên đây, tôi đã lướt qua ba nhà thơ họ Phùng từ các phương diện quê hương – đất đai, gia đình – huyết thống, truyền thống văn hiến, nhân cách và thơ văn. Hoàn cảnh lớn làm cho họ khác nhau, nhưng hoàn cảnh nhỏ làm cho họ khác nhau. Phùng Cung là nhà thơ, Phùng Quán là nhà thơ, Phùng Khắc Bắc là nhà thơ. Với những tham khảo trên, tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Ba nhà thơ họ Phùng đến tay bạn đọc.
Viện trưởng Viện Nhân học Văn hóa
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng” state=”close”]
Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng
Hình Ảnh về: Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng
Video về: Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng
Wiki về Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng
Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng -
Ba nhà thơ Phùng Cung, Phùng Quán, Phùng Khắc Bắc vừa được một nhà thơ họ Phùng thứ tư là Phùng Văn Khải tạo nên một cuộc gặp gỡ thú vị. Họ giống và khác nhau về tuổi tác, quê quán, địa vị xã hội và phong cách thơ. Có lẽ vì thế mà sự trùng hợp này ở họ gợi lên biết bao suy tư, cảm xúc về một địa lý nhân văn, về nhân cách và thi ca, về những số phận thơ ca, về một dòng chảy văn chương tưởng như bất tận. .
Sơn Tây – Xứ Đoài Xưa, bao gồm Vĩnh Phúc và một phần Phú Thọ, là nơi sinh (Yên Lạc) và quê tổ cũng là quê nuôi (Sơn Tây) của Phùng Cung. Đây là vùng đất đá ong (lau khô nhiều nước mắt – Quang Dũng) lồng lộng, trời xanh thăm thẳm mây trắng lững thững lên đỉnh Ba Vì. Đất trời tạo nên nét cổ kính xứ Đoài. Mây trắng là con đẻ của đất trời, là linh hồn của xứ Đoài. Và Phùng Cung là một nhân vật điển hình. Phùng Khắc Bắc sinh ra ở làng Bùng, Thạch Thất (Nhà đá, tức là xây bằng đá ong), Sơn Tây. Dù sau này theo gia đình về Bắc Giang, một vùng đất đồi núi tương tự như Sơn Tây, nhưng nét trầm mặc, cô quạnh và thâm trầm của “vùng đất sỏi vàng” anh vẫn giữ được. Còn Phùng Quán, ông sinh ra ở Huế, nhưng những năm cuối đời - Nhân gian, ông trồng mía và làm thơ ở Thái Nguyên, một vùng trung du khác. Thơ Phùng Quán vừa có chất đồi núi của quê hương, vừa có chất đầm phá của quê hương.
Tuy không phải là họ hàng đầu của Việt Nam nhưng họ Phùng để lại nhiều dấu son trong lịch sử nước nhà. Đầu tiên phải kể đến Phùng Thanh Hóa, cánh tay phải của Lý Bí (Thành đình làng Ngọc Than, Quốc Oai, di tích lịch sử cấp quốc gia), người đã khởi nghĩa đánh nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân. . Vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Rồi đến Phùng Hưng, được nhân dân tôn là Bố Cái Đại Vương. Sau đó Phùng Tá Chu là người có công lớn giúp Trần Thủ Độ dựng nên nhà Trần. Cuối cùng là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, trạng nguyên, danh thần thời Lê Trung Hưng, từng cầm quân, đi sứ làm rạng danh cả nước. Ngoài ra, ông lão còn sống với nhiều thế hệ - tương truyền là tổ của nhiều nghề như dệt vải, trồng tương, mè. Ngoài tứ trụ nói trên của họ Phùng còn có nhiều nhân tài nổi tiếng khác như Phùng Phúc Kiều, Phùng Đốc, Phùng Hữu Hiếu, Phùng Ông, Phùng Trạm... Các nhà thơ như Phùng Cung quê ở Sơn Tây , người không bộc trực cũng là nhà thơ. họ Phùng Hưng, còn Phùng Khắc Bắc rõ ràng là hậu duệ của Trạng Bùng. Riêng dòng họ Phùng của Phùng Quán ở Huế thì chưa truy được nguồn gốc dòng họ từ đâu, nhưng chắc ít nhiều liên quan đến nơi phát tích. Dù cách xa nhau về không gian và thời gian nhưng dòng máu tổ tiên không thể không chảy trong huyết quản của ba nhà thơ này.
Nhà thơ Phùng Cung.
Phùng Cung tham gia khởi nghĩa tháng Tám. Ông làm chủ tịch xã Hồng Châu, rồi lên Việt Bắc vào Hội Văn nghệ Việt Nam làm cái nghề “tiếp lửa cho các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Tô Hoài... "Chứng kiến sự thoái hóa của loài người. Sự phá cách trong tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ và sự mai một của các loại hình nghệ thuật dân tộc như tuồng, hát bội, nghề thủ công truyền thống... nên khi hòa bình lập lại, ông đã viết truyện ngắn Con ngựa già chúa Trịnh cho in trên báo Nhân Văn năm 1956 và nhiều truyện ngắn khác chưa in, khi ở trong tù, lúc đầu ông cũng ngâm thơ ngắn, nhưng không nhớ nổi, đành chuyển sang ngâm thơ, để bảo vệ tiếng nói cũng là hỏng.Tập thơ Viễn cảnh buổi đêm là kết quả của việc thu hồi này. Phùng Cung, vì thế, trong hoàn cảnh nào cũng sống để viết để bảo vệ nhân cách trí thức và/hoặc nền văn hóa dân tộc của mình.
Nhà thơ Phùng Quán.
Phùng Quán cũng sinh ra trong một gia đình cách mạng. Năm 16 tuổi, ông tự gia nhập Vệ quốc đoàn với vai trò liên lạc, sau đó hoạt động nghệ thuật. Ông được gán cho là Nhân Loại khi viết những bài thơ khẳng định nhân cách, đạo đức con người như: lời của mẹ hoặc Chống tham ô lãng phí. Sau này, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu, ông vẫn giữ nguyên lý tưởng cách mạng ban đầu và một lòng chung thủy với thơ ca.
Nhà thơ Phùng Khắc Bắc.
Phùng Khắc Bắc thuộc thế hệ sau, nhưng thời đại anh sống không phải không cho lớp trẻ những lựa chọn. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, bố mẹ anh muốn cho con học đại học nhưng anh vẫn quyết tâm tòng quân đánh Mỹ cứu nước. Ở chiến trường B2, ông bị nhiễm chất độc da cam. Năm 1977, ông trở ra Bắc, làm việc ở Ban Tuyên huấn, học Trường Văn khoa Nguyễn Du, rồi chuyển sang Hội Nhà văn làm công tác hành chính. Trong khi làng nghệ thuật trăm hoa đua nở, trăm nhà nổi tiếng, văn nhân như bờ tre ấm bụi, thì ông sống lặng lẽ, lặng lẽ viết, không vì danh, cũng không để mưu sinh. Chỉ đến khi ông mất, nhà văn Xuân Thiều Lục Điếm mới biết ông có một tập truyện ngắn, một tiểu thuyết và một tập thơ.
Như vậy, ba nhà thơ họ Phùng đều là những con người có nhân cách rất cao. Nó không chỉ thể hiện trong cuộc sống, trong cuộc sống đời thường mà trước hết là ở sự trung thành với lý tưởng sáng tác của mình. Trong trường hợp này, cá tính sẽ tạo ra phong cáchmà trong đó là bài thi, Ecriture. Tính cách của họ, theo những cách tuyệt vời, giống nhau. Đó chính là yêu thơ, sống để làm thơ và làm thơ để sống: Có những lúc nản lòng/ Tôi giơ cao câu thơ (Phùng Quán). Khi rơi vào trường hợp mất tư cách công dân, chỉ còn là phó thường dân, Phùng Cung, Phùng Quán chỉ còn một con đường làm thơ bằng tiếng nói, bằng ngôn ngữ của mình, để tự khẳng định mình, thơ lúc này như một mục tiêu, một mục tiêu. lý do để sống. Thơ bây giờ, không tính từ, thơ sạch, nhưng để đạt được chất thơ độc đáo này, chúng ta phải sáng tạo và đổi mới. Phùng Khắc Bắc cũng vậy. Sống ở Hội Nhà văn (như Phùng Cung ở Hội Văn nghệ), chứng kiến những mùa thơ hợp tác được mùa bội thu, ông phải đi tìm thơ ở trang trại phần trăm của mình. Như vậy, nếu đổi mới, sáng tạo là con đường chung của cả Phùng Cung, Phùng Quán, Phùng Khắc Bắc thì nhà thơ nào cũng có. cách Sáng tạo của riêng bạn.
Nhà thơ Phùng Cung và Nhà thơ Hoàng Cầm (bìa phải).
Phùng Cung trong Viễn cảnh buổi đêm là sáng tạo thư. Những người bạn “đồng trang lứa trên trời” như Trần Dần, Lê Đạt, những nhà thơ coi chữ là tiên của thơ, tự gọi mình là âm tiết (Lê Đạt), làm thơ là làm việc từ, gây rắc rối (Trần Dần), Phùng Cung không khỏi chịu ảnh hưởng của quan niệm chữ nghĩa này. Tuy nhiên, Phùng Cung có hướng nghiên cứu riêng, khác cả Dân và Đạt. Nếu Trần Dần ép từng chữ trong bài thơ của mình, anh ấy sẽ phải ý nghĩa mớikhác với chủ nghĩa tiêu dùng, từ điển nghĩa, nếu Lê Đạt buộc từng chữ trong thơ phải Nó có nhiều ý nghĩa cùng một lúcđể mở rộng không gian thẩm mỹ của thơ, Phùng Cung đã làm khảo cổ học, khai quật được những lời quê sinh ra từ đầu núi. Thông qua từ quê hương Tìm thấy quê hương, vùng đất Sơn Tây xưa nay có thể đã được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn còn lưu giữ từ hóa thạch trong tâm thức của người làng nơi đây. Thơ của Viễn cảnh buổi đêm là đánh thức con chữ, đánh thức ký ức dân tộc, đánh thức lương tri văn hóa dân tộc. Bởi vậy, thơ Phùng Cung hiện đại, nhưng khác với thơ hiện đại-hiện đại của Trần Dần, Lê Đạt, Thanh Tâm Tuyền, thơ Phùng Cung, Tô Thùy Yên là hiện đại-cổ điển.
PGS. PGS.TS Đỗ Lai Thúy tại lễ trao tặng sách.
Thơ Phùng Quán không tìm chữ mà tìm ý, nghĩ, ý. Ngôn từ trong thơ Phùng Quán, vì thế, tự nó không có giá trị gì, không sinh ra tư tưởng mà phục vụ cho tư tưởng. Thơ anh là thơ Diễn đàn. Bạn có thể đọc to cho bạn bè bên mâm rượu, bên Ngắm sóng Hồ Tây, đọc to những buổi bình thơ, đàm đạo thơ trong khán phòng, thậm chí đọc to cho đám đông trong phòng chờ tàu. Cũng như Hoàng Cầm, Phùng Quán có giọng đọc/ngâm thơ rất hay nên rất thích đọc trước đám đông. Thơ muốn vậy phải tư duy rõ ràng, súc tích, ngôn từ hấp dẫn, âm vang chứ không đa nghĩa. Thơ Phùng Quán là thơ của nhân dân. Như ông nói: “Nếu đi với dân thì thơ không thể khác được”.
Phùng Khắc Bắc ngay từ đầu đã làm thơ tự do, không như đa số phải trải qua thể thơ truyền thống và thơ mới. Điều này phần nào chứng tỏ trong anh một suy nghĩ hỗn độn, giông bão, muốn bùng nổ. Đó là suy nghĩ của những người đã từng trải qua chiến tranh, của những người đã từng đối mặt với nhiều cái chết vì mang trong mình mầm mống của sự chết. Vì vậy, ông không có niềm vui hời hợt, phong trào mà có nỗi buồn riêng do có cái nhìn sâu sắc về bản chất cuộc sống và con người. Không, không thể viết một kiệt tác Ngày đầu tiên của hòa bình.
PGS. PGS.TS Đỗ Lai Thúy tại lễ trao tặng sách.
Trên đây, tôi đã lướt qua ba nhà thơ họ Phùng từ các phương diện quê hương - đất đai, gia đình - huyết thống, truyền thống văn hiến, nhân cách và thơ văn. Hoàn cảnh lớn làm cho họ khác nhau, nhưng hoàn cảnh nhỏ làm cho họ khác nhau. Phùng Cung là nhà thơ, Phùng Quán là nhà thơ, Phùng Khắc Bắc là nhà thơ. Với những tham khảo trên, tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Ba nhà thơ họ Phùng đến tay bạn đọc.
Viện trưởng Viện Nhân học Văn hóa
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Ba nhà thơ Phùng Cung, Phùng Quán, Phùng Khắc Bắc vừa được một nhà thơ họ Phùng thứ tư là Phùng Văn Khải tạo nên một cuộc gặp gỡ thú vị. Họ giống và khác nhau về tuổi tác, quê quán, địa vị xã hội và phong cách thơ. Có lẽ vì thế mà sự trùng hợp này ở họ gợi lên biết bao suy tư, cảm xúc về một địa lý nhân văn, về nhân cách và thi ca, về những số phận thơ ca, về một dòng chảy văn chương tưởng như bất tận. .
Sơn Tây – Xứ Đoài Xưa, bao gồm Vĩnh Phúc và một phần Phú Thọ, là nơi sinh (Yên Lạc) và quê tổ cũng là quê nuôi (Sơn Tây) của Phùng Cung. Đây là vùng đất đá ong (lau khô nhiều nước mắt – Quang Dũng) lồng lộng, trời xanh thăm thẳm mây trắng lững thững lên đỉnh Ba Vì. Đất trời tạo nên nét cổ kính xứ Đoài. Mây trắng là con đẻ của đất trời, là linh hồn của xứ Đoài. Và Phùng Cung là một nhân vật điển hình. Phùng Khắc Bắc sinh ra ở làng Bùng, Thạch Thất (Nhà đá, tức là xây bằng đá ong), Sơn Tây. Dù sau này theo gia đình về Bắc Giang, một vùng đất đồi núi tương tự như Sơn Tây, nhưng nét trầm mặc, cô quạnh và thâm trầm của “vùng đất sỏi vàng” anh vẫn giữ được. Còn Phùng Quán, ông sinh ra ở Huế, nhưng những năm cuối đời – Nhân gian, ông trồng mía và làm thơ ở Thái Nguyên, một vùng trung du khác. Thơ Phùng Quán vừa có chất đồi núi của quê hương, vừa có chất đầm phá của quê hương.
Tuy không phải là họ hàng đầu của Việt Nam nhưng họ Phùng để lại nhiều dấu son trong lịch sử nước nhà. Đầu tiên phải kể đến Phùng Thanh Hóa, cánh tay phải của Lý Bí (Thành đình làng Ngọc Than, Quốc Oai, di tích lịch sử cấp quốc gia), người đã khởi nghĩa đánh nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân. . Vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Rồi đến Phùng Hưng, được nhân dân tôn là Bố Cái Đại Vương. Sau đó Phùng Tá Chu là người có công lớn giúp Trần Thủ Độ dựng nên nhà Trần. Cuối cùng là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, trạng nguyên, danh thần thời Lê Trung Hưng, từng cầm quân, đi sứ làm rạng danh cả nước. Ngoài ra, ông lão còn sống với nhiều thế hệ – tương truyền là tổ của nhiều nghề như dệt vải, trồng tương, mè. Ngoài tứ trụ nói trên của họ Phùng còn có nhiều nhân tài nổi tiếng khác như Phùng Phúc Kiều, Phùng Đốc, Phùng Hữu Hiếu, Phùng Ông, Phùng Trạm… Các nhà thơ như Phùng Cung quê ở Sơn Tây , người không bộc trực cũng là nhà thơ. họ Phùng Hưng, còn Phùng Khắc Bắc rõ ràng là hậu duệ của Trạng Bùng. Riêng dòng họ Phùng của Phùng Quán ở Huế thì chưa truy được nguồn gốc dòng họ từ đâu, nhưng chắc ít nhiều liên quan đến nơi phát tích. Dù cách xa nhau về không gian và thời gian nhưng dòng máu tổ tiên không thể không chảy trong huyết quản của ba nhà thơ này.
Nhà thơ Phùng Cung.
Phùng Cung tham gia khởi nghĩa tháng Tám. Ông làm chủ tịch xã Hồng Châu, rồi lên Việt Bắc vào Hội Văn nghệ Việt Nam làm cái nghề “tiếp lửa cho các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… “Chứng kiến sự thoái hóa của loài người. Sự phá cách trong tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ và sự mai một của các loại hình nghệ thuật dân tộc như tuồng, hát bội, nghề thủ công truyền thống… nên khi hòa bình lập lại, ông đã viết truyện ngắn Con ngựa già chúa Trịnh cho in trên báo Nhân Văn năm 1956 và nhiều truyện ngắn khác chưa in, khi ở trong tù, lúc đầu ông cũng ngâm thơ ngắn, nhưng không nhớ nổi, đành chuyển sang ngâm thơ, để bảo vệ tiếng nói cũng là hỏng.Tập thơ Viễn cảnh buổi đêm là kết quả của việc thu hồi này. Phùng Cung, vì thế, trong hoàn cảnh nào cũng sống để viết để bảo vệ nhân cách trí thức và/hoặc nền văn hóa dân tộc của mình.
Nhà thơ Phùng Quán.
Phùng Quán cũng sinh ra trong một gia đình cách mạng. Năm 16 tuổi, ông tự gia nhập Vệ quốc đoàn với vai trò liên lạc, sau đó hoạt động nghệ thuật. Ông được gán cho là Nhân Loại khi viết những bài thơ khẳng định nhân cách, đạo đức con người như: lời của mẹ hoặc Chống tham ô lãng phí. Sau này, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu, ông vẫn giữ nguyên lý tưởng cách mạng ban đầu và một lòng chung thủy với thơ ca.
Nhà thơ Phùng Khắc Bắc.
Phùng Khắc Bắc thuộc thế hệ sau, nhưng thời đại anh sống không phải không cho lớp trẻ những lựa chọn. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, bố mẹ anh muốn cho con học đại học nhưng anh vẫn quyết tâm tòng quân đánh Mỹ cứu nước. Ở chiến trường B2, ông bị nhiễm chất độc da cam. Năm 1977, ông trở ra Bắc, làm việc ở Ban Tuyên huấn, học Trường Văn khoa Nguyễn Du, rồi chuyển sang Hội Nhà văn làm công tác hành chính. Trong khi làng nghệ thuật trăm hoa đua nở, trăm nhà nổi tiếng, văn nhân như bờ tre ấm bụi, thì ông sống lặng lẽ, lặng lẽ viết, không vì danh, cũng không để mưu sinh. Chỉ đến khi ông mất, nhà văn Xuân Thiều Lục Điếm mới biết ông có một tập truyện ngắn, một tiểu thuyết và một tập thơ.
Như vậy, ba nhà thơ họ Phùng đều là những con người có nhân cách rất cao. Nó không chỉ thể hiện trong cuộc sống, trong cuộc sống đời thường mà trước hết là ở sự trung thành với lý tưởng sáng tác của mình. Trong trường hợp này, cá tính sẽ tạo ra phong cáchmà trong đó là bài thi, Ecriture. Tính cách của họ, theo những cách tuyệt vời, giống nhau. Đó chính là yêu thơ, sống để làm thơ và làm thơ để sống: Có những lúc nản lòng/ Tôi giơ cao câu thơ (Phùng Quán). Khi rơi vào trường hợp mất tư cách công dân, chỉ còn là phó thường dân, Phùng Cung, Phùng Quán chỉ còn một con đường làm thơ bằng tiếng nói, bằng ngôn ngữ của mình, để tự khẳng định mình, thơ lúc này như một mục tiêu, một mục tiêu. lý do để sống. Thơ bây giờ, không tính từ, thơ sạch, nhưng để đạt được chất thơ độc đáo này, chúng ta phải sáng tạo và đổi mới. Phùng Khắc Bắc cũng vậy. Sống ở Hội Nhà văn (như Phùng Cung ở Hội Văn nghệ), chứng kiến những mùa thơ hợp tác được mùa bội thu, ông phải đi tìm thơ ở trang trại phần trăm của mình. Như vậy, nếu đổi mới, sáng tạo là con đường chung của cả Phùng Cung, Phùng Quán, Phùng Khắc Bắc thì nhà thơ nào cũng có. cách Sáng tạo của riêng bạn.
Nhà thơ Phùng Cung và Nhà thơ Hoàng Cầm (bìa phải).
Phùng Cung trong Viễn cảnh buổi đêm là sáng tạo thư. Những người bạn “đồng trang lứa trên trời” như Trần Dần, Lê Đạt, những nhà thơ coi chữ là tiên của thơ, tự gọi mình là âm tiết (Lê Đạt), làm thơ là làm việc từ, gây rắc rối (Trần Dần), Phùng Cung không khỏi chịu ảnh hưởng của quan niệm chữ nghĩa này. Tuy nhiên, Phùng Cung có hướng nghiên cứu riêng, khác cả Dân và Đạt. Nếu Trần Dần ép từng chữ trong bài thơ của mình, anh ấy sẽ phải ý nghĩa mớikhác với chủ nghĩa tiêu dùng, từ điển nghĩa, nếu Lê Đạt buộc từng chữ trong thơ phải Nó có nhiều ý nghĩa cùng một lúcđể mở rộng không gian thẩm mỹ của thơ, Phùng Cung đã làm khảo cổ học, khai quật được những lời quê sinh ra từ đầu núi. Thông qua từ quê hương Tìm thấy quê hương, vùng đất Sơn Tây xưa nay có thể đã được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn còn lưu giữ từ hóa thạch trong tâm thức của người làng nơi đây. Thơ của Viễn cảnh buổi đêm là đánh thức con chữ, đánh thức ký ức dân tộc, đánh thức lương tri văn hóa dân tộc. Bởi vậy, thơ Phùng Cung hiện đại, nhưng khác với thơ hiện đại-hiện đại của Trần Dần, Lê Đạt, Thanh Tâm Tuyền, thơ Phùng Cung, Tô Thùy Yên là hiện đại-cổ điển.
PGS. PGS.TS Đỗ Lai Thúy tại lễ trao tặng sách.
Thơ Phùng Quán không tìm chữ mà tìm ý, nghĩ, ý. Ngôn từ trong thơ Phùng Quán, vì thế, tự nó không có giá trị gì, không sinh ra tư tưởng mà phục vụ cho tư tưởng. Thơ anh là thơ Diễn đàn. Bạn có thể đọc to cho bạn bè bên mâm rượu, bên Ngắm sóng Hồ Tây, đọc to những buổi bình thơ, đàm đạo thơ trong khán phòng, thậm chí đọc to cho đám đông trong phòng chờ tàu. Cũng như Hoàng Cầm, Phùng Quán có giọng đọc/ngâm thơ rất hay nên rất thích đọc trước đám đông. Thơ muốn vậy phải tư duy rõ ràng, súc tích, ngôn từ hấp dẫn, âm vang chứ không đa nghĩa. Thơ Phùng Quán là thơ của nhân dân. Như ông nói: “Nếu đi với dân thì thơ không thể khác được”.
Phùng Khắc Bắc ngay từ đầu đã làm thơ tự do, không như đa số phải trải qua thể thơ truyền thống và thơ mới. Điều này phần nào chứng tỏ trong anh một suy nghĩ hỗn độn, giông bão, muốn bùng nổ. Đó là suy nghĩ của những người đã từng trải qua chiến tranh, của những người đã từng đối mặt với nhiều cái chết vì mang trong mình mầm mống của sự chết. Vì vậy, ông không có niềm vui hời hợt, phong trào mà có nỗi buồn riêng do có cái nhìn sâu sắc về bản chất cuộc sống và con người. Không, không thể viết một kiệt tác Ngày đầu tiên của hòa bình.
PGS. PGS.TS Đỗ Lai Thúy tại lễ trao tặng sách.
Trên đây, tôi đã lướt qua ba nhà thơ họ Phùng từ các phương diện quê hương – đất đai, gia đình – huyết thống, truyền thống văn hiến, nhân cách và thơ văn. Hoàn cảnh lớn làm cho họ khác nhau, nhưng hoàn cảnh nhỏ làm cho họ khác nhau. Phùng Cung là nhà thơ, Phùng Quán là nhà thơ, Phùng Khắc Bắc là nhà thơ. Với những tham khảo trên, tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Ba nhà thơ họ Phùng đến tay bạn đọc.
Viện trưởng Viện Nhân học Văn hóa
[/box]
#Hạnh #ngộ #của #nhà #thơ #họ #Phùng
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Hạnh ngộ của ba nhà thơ họ Phùng bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Hạnh #ngộ #của #nhà #thơ #họ #Phùng
Trả lời