I. Đoạn văn trong văn bản tự sự
– Trong văn bản tự sự, mỗi đoạn thường có một câu nêu ý chung gọi là câu chủ đề. Các câu khác diễn tả các ý cụ thể.
– Mỗi văn bản tự sự thường gồm nhiều đoạn văn có nhiệm vụ không giống nhau:
+ Đoạn mở đầu: giới thiệu câu chuyện
+ Đoạn trong thân bài: kể lại cụ thể sự việc.
+ Kết bài: tạo ấn tượng mạnh đối với suy nghĩ, tình cảm của người đọc.
– Nội dung mỗi đoạn tuy không giống nhau (cách tả người, kể sự việc) nhưng đều có chung nhiệm vụ là trình bày chủ đề, ý nghĩa của văn bản.
II. Cách viết đoạn văn trong văn tự sự
Câu hỏi 1:
Nhận xét về phần mở đầu và kết thúc truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành:
một. Các đoạn văn trình bày đúng và rõ ý đồ của tác giả trước lúc viết truyện. Nội dung và giọng điệu của đoạn mở đầu và đoạn kết:
– Giống nhau ở chỗ: Cả đoạn mở đầu và kết thúc đều tả cảnh khu rừng. Nó tạo thành một kết cấu mở – tròn. Cấu trúc này vừa đảm bảo tính chặt chẽ của bố cục, vừa tập trung làm nổi trội chủ đề của tác phẩm. Ko những thế, kết cấu mở theo vòng tròn còn gợi mở cho người đọc sự liên tưởng liên tưởng “mở rộng vấn đề”.
– Không giống nhau: Hai đoạn mở đầu mô tả khu rừng cụ thể, sinh động bằng các cụ thể nghệ thuật giữa sức tạo hình tạo ko khí cho câu chuyện và có sức dẫn dắt, thu hút người đọc. Trong lúc đó, phần cuối truyện chủ yếu mô tả cảnh rừng lụi tàn, vô tận nhằm gợi cho người đọc cảm nhận về sự bất tử của rừng và sức sống mãnh liệt của con người.
b. Qua tìm hiểu các chặng đường sáng tác “Rừng xà nu” của Nguyên Ngọc, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm: trước lúc viết hay kể chuyện, cần suy nghĩ, dự kiến mở đầu và kết thúc bài viết. Văn học. Tương tự, bài văn sẽ có một mạch văn thống nhất, mạch lạc, rõ ràng, thu hút người đọc, người nghe.
Câu 2:
Nhận xét về đoạn văn kể chuyện kiếp sau của chị Dậu:
một. Đoạn văn này là một phần của phần thân bài (diễn biến) của “truyện ngắn” nhưng học trò của bạn định viết. Đoạn văn này kể lại một sự kiện quan trọng, đó là chuyện “Cô Dậu về làng lãnh đạo khởi nghĩa lúc Cách mệnh Tháng Tám năm 1945 bùng nổ”. Sự việc thích hợp với chủ đề và tình tiết nhưng học trò đã nêu ra và vạch ra. Có thể xem đây là một đoạn văn trong văn bản tự sự.
b. Có thể nói, đoạn văn trên chỉ thành công trong việc “kể” câu chuyện. Nhược điểm của đoạn văn là việc sắp xếp cảnh và tả tâm trạng còn chưa thuần thục, hay. Vân Phong vẫn còn bối rối và khó xử.
– Có thể sửa hai chỗ “bối rối” trong đoạn văn của học trò như sau:
“… Tới bờ đê cao, con đê chắn ngang nếp nhà bà, đúng lúc trời đằng đông, mặt trời mở màn hửng lên những ánh hồng rực rỡ, bà Dậu chợt ngước nhìn. Tôi thấy một nhóm người…”
“Người phụ nữ quê nghèo chạy trốn trong đêm tối đó mừng tới phát khóc. Nhưng hãy cố kìm nén xúc cảm…”.
Câu 3:
Từ kinh nghiệm học được ở nhà văn Nguyên Ngọc và đoạn văn về hóa thân của chị Dậu, có thể rút ra một số xem xét về cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự:
– Lúc viết đoạn mở bài và kết bài cần căn cứ vào chủ đề, tình tiết để xác định nội dung. Hai đoạn văn này cần phải được làm sao cho ý nghĩa thống nhất và phục vụ lẫn nhau.
– Sau đoạn mở bài, các em còn phải dựa vào tình tiết, chủ đề và các ý của bài văn để viết các đoạn thân bài: mô tả, giới thiệu nhân vật, tự sự, hội thoại,…
– Lúc viết đoạn văn trong bài văn tự sự cần huy động năng lực quan sát, trí tưởng tượng, liên tưởng, vốn hiểu biết về đời sống,… đồng thời nắm vững các thao tác trong viết đoạn văn.
III. Thực tiễn
Câu hỏi 1:
Đọc đoạn văn “Tôi dùng một cái xẻng nhỏ để đào đất… […]… tất cả các chuyển động chung là kim đồng hồ.”
một. Đoạn văn này kể lại câu chuyện của chị Phương Định – một nữ thanh niên xung phong đang rà phá bom mìn mở đường ra mặt trận. Đây là đoạn văn trong phần thân bài (phần tăng trưởng) của văn bản tự sự Những ngôi sao xa xôi (truyện ngắn của Lê Minh Khuê).
b. Đoạn văn được sao chép có một số lỗi tường thuật.
Trong truyện ngắn, người kể chuyện (nhân vật Phương Định gọi tôi, kể chuyện về mình và đội thanh niên xung phong). Ở một số câu trong đoạn này, đại từ “tôi” đã được thay thế bằng “cô gái” (câu 5); “Cô” (câu 6, 16), danh từ riêng “Phương Đình” (câu 14, 20). Cần sửa lại để văn bản thống nhất về mặt người kể chuyện (thứ bậc nhất – xưng tôi).
c. Từ những phát hiện và thay đổi trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm:
Trong văn bản tự sự, người viết cần nhất quán về người kể chuyện. Nếu ko có sự thay đổi về người kể thì ngôi kể đó sẽ thống nhất từ đầu tới các đoạn tiếp theo. Có tương tự, văn bản tự sự mới chặt chẽ, logic, thu hút và thuyết phục người đọc.
Câu 2:
Viết đoạn văn mô tả cử chỉ, tâm trạng của cô gái bị người yêu ép buộc trong đoạn trích bài thơ “Tiên nói với người yêu”.
Sử dụng các gợi ý sau để hoàn thành đoạn văn:
Trái tim cảm thấy choáng ngợp, người con gái bước đi trong ngơ ngẩn, khiến “Càng bước đi xa lòng càng nhớ nhung”. Người ra đi mang theo một nỗi nhớ khôn nguôi (vừa đi vừa nhìn) như kì vọng chàng trai. Chân cứ bước nhưng lòng trĩu nặng bao xúc cảm: theo người mình ko yêu, bỏ lại một tình yêu đẹp (nỗi đau dồn nén). Tuyến đường của cô gái rất dài, nơi cô tới: rừng ớt, rừng cà, rừng lá ngón, hành động: tuốt lá ớt, lá cà, đợi, đợi, đợi. Lá ớt, lá cà, lá móng chân đều là những loại lá độc -> cô gái như muốn kết liễu số phận, để ko theo người chồng xa lạ, người chồng nhưng cô ko yêu, muốn chung sống với chàng trai -> người đàn ông của mình. khát khao được yêu tự do.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Soạn bài: Luyện viết đoạn văn tự sự có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Soạn bài: Luyện viết đoạn văn tự sự bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời