Chuyện người con gái Nam Xương được vẽ trong tác phẩm Truyền Thuyết Mãn Lựcmột bài thơ văn xuôi bằng chữ Hán của Nguyễn Du ở thế kỷ XVI, một tuyệt bút được văn học cổ truyền tụng là “thiên cổ hùng văn”.
Truyện kể về một câu chuyện huyền thoại mang nhiều yếu tố hoang đường được lưu truyền trong dân gian về một thảm kịch gia đình ở Nam Xương bên sông Hoàng Giang vào cuối thế kỷ XIV, mặc dù vậy kỷ XV là thời kỳ đầy biến động và thay đổi. cử động.
Nhân vật Vũ Nương là cô gái nghèo, xấu số nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho tiết hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Bà tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Sinh ra trong một gia đình “khó ở” nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có tiết hạnh: “Tính tình nhu mì, nũng nịu, lại có tư tưởng tốt”. Nàng là một cô gái đoan trang nên Trương Sinh, con nhà giàu “yêu cho sướng” đã xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là người phụ nữ thông minh, nhân hậu, biết chồng “đa nghi”, nàng đã “giữ gìn mực thước” để vợ chồng ko phải “bất hòa”.
Sống giữa thời tao loạn, Trương Sinh phải tòng quân chinh chiến nơi biên cửa ải xa xôi. Trong buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương rót chén rượu đầy chúc chồng “lời ra tiếng vào êm đềm”, ko ngờ nàng lại đeo ấn tín mặc áo gấm trở về cố quốc. … Mong ước của cô thật đơn giản, bởi cô coi trọng hạnh phúc gia đình hơn tất cả những lợi danh phù phiếm ở đời. Trong những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng da diết: “…thấy bướm bay lượn vườn, mây che núi, lòng buồn một góc trời ko dứt được”.
Tâm trạng buồn đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của kẻ chinh phụ trong mọi náo động năm xưa:
… Nhớ em mãi đường lên trời
Bầu trời thật sâu và xa
Cách tốt nhất để hồi ức…
(đoạt được ngâm )
Trình bày tâm trạng đấy, Nguyễn Dữ vừa đồng cảm với nỗi khổ đau của Vũ Nương, vừa ngợi ca tấm lòng chung tình, đợi chồng của nàng.
Vũ Nương là người phụ nữ đảm đang, giàu lòng mến thương. Chỉ một tuần sau lúc chồng ra trận, chị sinh hạ một cậu đàn ông tên Đản. Mẹ chồng già yếu, bệnh tật, cô “vô cùng dược”, “ngon ngọt khuyên nhủ”. Vừa chăm mẹ già, vừa chăm con nhỏ. Lúc mẹ chồng mất, nàng “hết vía”, ma chay, tế lễ được tính liệu, tổ chức rất chu đáo “như cha mẹ ruột”. Qua đó, ta thấy ở Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt: người con dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung, người mẹ hiền. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí trí trong xã hội phong kiến xưa.
Năm sau, “việc quân đã xong”, Trương Sinh từ xa chinh chiến trở về. Tuy nhiên Vũ Nương lại ko được lợi hạnh phúc trong cảnh sum vầy. Chỉ vì câu chuyện xa xôi lọt qua mồm đứa con thơ mới biết nói nhưng Trương Sinh “quyết là người vợ hư”, “quở trách”, “đánh đòn”. Vốn là kẻ vô học và vũ phu, Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi “lời lẽ” của vợ, mọi lời “thanh minh” của láng giềng láng giềng. Vũ Nương bị chồng đẩy vào thảm kịch, vu vạ là vợ “mất tích”. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn để trình bày nàng là một người phụ nữ “tử tế giữ trinh, tiết hạnh và giữ lòng son”, suốt đời soi sáng cho đời “xuống nước xin làm Mị. Nương ngọc, xuống đất làm cỏ Ngự”. đẹp”. Thảm kịch Vũ Nương là thảm kịch gia đình xuất phát từ chuyện chồng con, nhưng căn nguyên là do chiến tranh, tao loạn. Chỉ một thời kì ngắn, sau lúc Vũ Nương tự vẫn, trong một đêm dưới ngọn đèn, bỗng đứa con rằng: “Cha Đản lại tới rồi!” Lúc đấy Trương Sinh “đã thức tỉnh nỗi oan của vợ, nhưng đã trót lọt!” Người đọc lâu nay chỉ biết tới sự tôn thờ lâu dài, với Nguyễn Du ngậm ngùi người con gái Nam Xương và nhiều những người phụ nữ xấu số khác trên đời, Vũ Nương tự vẫn, chẳng cần chồng con “phun chén nước oan” (truyện Kiều).
Phần cuối của câu chuyện đầy kỳ ảo. Đây là Phan Lang nằm mơ thấy cô gái áo lam xin tha mạng. Phan Lang được tặng một con rùa mai nhưng ko giết thịt nhưng thả xuống sông. Đây là Phan Lang chết trôi, xác dạt vào hang rùa trên đảo. Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải lấy khăn lau, thuốc thần đổ xuống, Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc tại gác xép Triều Dương để thiết đãi Phan Lang, ân nhân cứu mạng năm xưa của nàng. Đoạn Phan Lang gặp Vũ Nương trong bữa tiệc của Linh Phi, Vũ Nương đã khóc lúc nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa mồ mả của tổ tiên, đoạn Vũ Nương gửi cho Phan Lang chiếc hoa vàng và dặn chồng lập bàn thờ. Bến Hoàng Giang, hình ảnh Vũ Nương ngồi trong kiệu hoa, đằng sau là năm mươi chiếc oto đủ màu, ô chở che đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những cụ thể hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của nàng. người phụ nữ “xui xẻo… số phận ngang trái”, có trị giá tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của hồn ma Vũ Nương giữa dòng sông: “Ơn người đã thương, tôi ko thể trở lại trần gian được nữa” đã làm tăng thêm trị giá nhân đạo của truyện. Nỗi oan của Vũ Nương đã được giải oan và giải thoát nhưng âm dương đã xa cách, nàng ko thể về dương, ko bao giờ được làm vợ, làm mẹ nữa. Nhỏ Đan mãi mãi là đứa trẻ mồ côi.
Tóm lại, Vũ Nương là một cô gái hạnh phúc và kém may mắn. Nguyễn Du đã kể lại cuộc đời oan trái của nàng với nhiều cụ thể vô cùng thương tâm. Tuy mang yếu tố hoang đường nhưng văn xuôi Chuyện người con gái Nam Xương giàu trị giá nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là tiêu biểu cho thảm kịch của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Người đọc càng xúc động hơn lúc nhớ lại bài thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài thơ Một chuyến thăm khác tới Vũ Thị:
Lời chứng thực có đôi mặt trời và mặt trăng,
Giải pháp ko công bình ko phải là nhiều tuổi.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” (4) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” (4) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời