Thơ cổ viết về thời kỳ, bài thơ Chị em Thúy Kiều được trích dẫn ở Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những bài thơ hay. Hai mươi bốn câu thơ sáu tám gợi tả vẻ đẹp, tài năng và đức độ của chị em Thuý Kiều và Thuý Vân – hai người phụ nữ tuyệt vời với tất cả sự yêu quý, kính trọng của vị đại thi hào dân tộc.
Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu người thứ hai trong gia đình: “Thuý Kiều là em, em là Thuý Vân”, là con đầu lòng của ông bà ngoại Vương Viện. “Hai cô gái” là hai cô gái xinh đẹp và xinh đẹp. Thực chất cao như mai (một loài hoa đẹp và quý), và ý thức trong trắng như tuyết. Hai chị em đều có vẻ đẹp tâm hồn tuyệt vời “mười phân vẹn mười”, tuy nhiên, mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng “mỗi người một vẻ”.
Một cái nhìn tôn kính đầy khám phá; Dùng mai và tuyết làm tiêu chuẩn của cái đẹp, Nguyễn Du mô tả tâm hồn trong sáng, trinh nguyên, làm rõ nét thần thái của chân dung thiếu nữ.
Bốn câu tiếp theo tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa của một bức chân dung tuyệt đẹp. Cử chỉ, đi đứng … rất trang trọng và quý phái. Hành vi là tử tế. Bạn đang nở rộ và mỏng manh như bạn là một con bướm tằm. Gương mặt đẹp như trăng rằm. Nụ cười tươi như hoa. Giọng nói trong trẻo như ngọc. Tóc mềm mượt, óng ả tới mức “mất mây”. Làn da trắng mịn khiến phái tuyết phải “chào thua”. Mô tả lạ mắt và chuyển đổi. Sử dụng ẩn dụ, tư cách hóa một cách khôn khéo:
Khuôn trăng tròn trịa nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc bội.
Sử dụng phương pháp so sánh và tư cách hóa:
Mây mất màu tóc tuyết nhường màu da.
Các từ: “trang trọng”, “đoan trang” là hai nét chấm phá tinh tế, gợi lên thần thái của chân dung người phụ nữ: vẻ đẹp quý phái, nhân hậu. Một cái nhìn nhân đạo đầy trân trọng và quý mến của thi sĩ lúc mô tả về Thúy Vân.
Mười hai câu tiếp theo mô tả vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều. Nguyễn Du tả Thuý Vân trước, sau đó tả Thuý Kiều, chỉ dùng 4 câu tả Thuý Vân, dùng 12 câu tả Thuý Kiều. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều ko chỉ đẹp nhưng còn giàu tài năng. Nàng Kiều ‘sắc nước hương trời’, đẹp ‘nghiêng nước nghiêng thành’. Kiều là một tuyệt sắc mĩ nhân “cái đẹp phải xin”. Có tài, may có người sánh ngang Kiều: “tài vẽ hai”. Nguyễn Du sử dụng giải pháp tu từ ẩn dụ so sánh liên kết với tư cách hóa riêng để truyền tụng và mô tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
Mùa thu nước, mùa xuân sơn,
Hoa ghen tuông thua kém cánh hoa xanh liễu hon
Đôi mắt đẹp trong xanh như nước hồ thu, lông mày thanh nhã như hình, nét núi xuân. Đôi môi và đôi má ửng hồng khiến hoa ghen tuông tị làn da trắng nuột nà khiến liễu cũng phải “ghét”. Vẫn lấy vẻ đẹp tự nhiên (thu, xuân, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp, đó là văn pháp thông thường trong thơ cổ. Thế nhưng, nét vẽ của Nguyễn Du thật tài hoa, mỗi nét vẽ đều toát lên một cái thần, một vẻ đẹp nhân văn.
Kiều “thông minh bẩm sinh” tức là thông minh bẩm sinh, nên những nghệ thuật như thơ, họa, hò, vè tuy chỉ là thú tao nhã nhưng nàng lại rất tinh xảo, điêu luyện: “độ”, “ăn đứt” hơn cả người đời:
Thông minh vốn dĩ là thần thánh,
Trộn nghề hội họa, đủ mùi hát ..
Cung điện và các tầng thương nghiệp có ngũ âm, nghề nghiệp của chính mình ăn nên làm ra, nắm giữ trường học.
Kiều giỏi về âm luật, giỏi về “độ”. Cây đàn luýt nhưng cô đó chơi là đàn hạc; Nhạc của cô đó thật hay “ăn đứt” bất kỳ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác nhạc, tên bài hát nàng sáng tác là “số phận thầm lặng” nghe đau buồn “não lòng người”, khiến lòng người xót xa, cực khổ. Từ: sắc, mặn, thêm, ghen tuông, hờn , nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, hòa hai, cố hữu, pha nghề, mùi mẫn, bước lên, ăn đứt, bạc phận, não tàn – nhân tạo tạo nên một hệ thống tiếng nói ngang trái rực rỡ và hé mở dự đoán về số phận đen thui của Kiều, như dân gian lưu truyền:
Một và hai, phải ko?
Thiên tài rất được trời đất ghen tuông tị.
Bốn câu cuối của đoạn văn nói về phẩm hạnh của hai người phụ nữ: Tuy xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, khách “lắm chiêu”, đã tới tuần “phúc báo” nhưng “hai nàng” đành rằng. một cuộc sống có trật tự và giáo dục:
Nhẹ nhõm rủ tấm màn che xuống,
Bức tường đông đúc ong bướm.
Câu thơ “Xuân xanh đã xấp sang tuần” là một câu thơ rực rỡ về thanh điệu, về cách sử dụng phụ âm “x” (xấp xuân xanh), phụ âm “t” (sang tuần), phụ âm “ck” (báo ) tạo nên nhạc điệu nhẹ nhõm, êm đềm về cuộc sống yên bình, yên ả của một cô gái trẻ trong căn phòng.
Bài thơ về chị em Thúy Kiều là một trong những bài thơ hay và rực rỡ nhất trong Truyện Kiều được nhiều người thích thú và ưa thích. Tiếng nói thơ trau chuốt, giàu xúc cảm. Cô đọng, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các giải pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hoá được thi sĩ vận dụng ý thức để tạo nên những vần thơ ước lệ, trữ tình. Ẩn sau chân dung hoa hậu là cả một tấm lòng trân trọng và yêu quý. Đó chính là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du nhưng chúng ta có thể cảm thu được.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” (2) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” (2) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời