Thành thị Hà Giang được thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1891 và được tái lập ngày 1 tháng 10 năm 1991. Vị trí địa lý: Là một tỉnh miền núi, nằm ở cực bắc Tổ quốc, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam và Quảng Tây – Trung Quốc có đường biên giới dài 274 km. Phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Diện tích tự nhiên 7.884,37km2 Địa hình: Do cấu trúc địa hình phức tạp, tự nhiên tạo dựng và ưu đãi cho Hà Giang nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên, tài nguyên…
Từ đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình Thành thị Hà Giang được phân thành ba vùng với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội không giống nhau, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng, đó là:
– Khu vực I: Là vùng núi phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ. Diện tích toàn vùng 2.352,7 km2, dân số trên 200.000 người, chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do có khí hậu lạnh về mùa đông, mát về mùa hè nên rất thích hợp cho việc tăng trưởng các loại cây ôn đới như dược liệu, thảo quả, đỗ trọng; Các loại cây ăn quả như mận, đào, lê, táo… Cây lương thực chính ở vùng này là ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong lấy mật. Các giống bò trên là đặc trưng của vùng ôn đới, có đặc điểm to lớn hơn và chịu lạnh tới âm độ. Đàn ong ở đây chủ yếu chỉ tăng trưởng vụ hè thu với 2 loại hoa chính là hoa ngô đồng và hoa bạc hà. Mật ong hoa bạc hà là loại mật ong đặc thù có trị giá trong việc chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe.
– Khu vực II: Là vùng núi phía Tây gồm các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km2, dân số chiếm 15,9%. Điều kiện tự nhiên của khu vực này thích hợp cho sự tăng trưởng của cây truffle và cây thông. Cây lương thực chính ở vùng này là lúa nước và ngô. Vật nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và gia cầm. Khu vực này là xứ sở của chè Shan tuyết và chủ sở hữu lâu đời của nó là người dân tộc Dao – một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời. đời sống.
– Khu vực III: Là vùng núi thấp bao gồm các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang, là vùng kinh tế trọng tâm của Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.320,3 km2, dân số chiếm 49,8%. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận tiện cho việc tăng trưởng lâm nghiệp, trồng các loại cây giấy như bồ đề, mỡ, thông, và đây cũng là vùng có diện tích tre lớn nhất. Ngoài ra, đây còn là vùng chuyên canh các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, chanh… Khí hậu: mang tính chất nhiệt đới gió mùa cao nguyên, mang nhiều sắc thái của khí hậu ôn đới. Dân số: Hơn 680.000 người. Dân tộc: 22 dân tộc anh em cùng chung sống tạo nên sự nhiều chủng loại về bản sắc văn hóa. Trong đó, dân tộc Mông chiếm 30,6%, dân tộc Tày chiếm 24,9%, dân tộc Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%.
Đơn vị hành chính: thành thị Hà Giang có một thị xã trung tâm và 10 huyện, tổng số 195 xã, phường, thị trấn, trong đó có 112 xã đặc thù khó khăn. Cơ sở hạ tầng: Đường giao thông chính tới Hà Giang là Quốc lộ 2. Năm 2000, 100% số xã có đường oto tới trung tâm. Lưới điện tăng trưởng rộng khắp, tới nay toàn tỉnh có 184 xã, phường, thị trấn được nối điện lưới quốc gia; Hệ thống lưới điện đảm bảo cung ứng cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bưu chính viễn thông đã tới tận các xã vùng sâu, vùng xa, mạng cáp quang liên tỉnh đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 11 huyện, thị xã có điện thoại di động, 100% xã, phường có điện thoại.
Tài nguyên tự nhiên: Tỉnh có 9 nhóm đất, trong đó chủ yếu là đất xám bạc màu, rất thích hợp cho tăng trưởng cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn quả. Hà Giang có diện tích rừng lớn với 345.860ha rừng tự nhiên, nhiều khu rừng nguyên sinh có động vật quý và nhiều loại gỗ quý, dược liệu quý. Tài nguyên nước có tiềm năng lớn cho tăng trưởng thủy điện. Về tài nguyên tài nguyên Hà Giang có 28 loại tài nguyên không giống nhau, trong đó có nhiều loại có trữ lượng lớn, hàm lượng khoáng cao.
Cơ cấu kinh tế: Dịch chuyển theo hướng giảm tỷ trọng nông – lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đời sống nhân dân: GDP tăng trưởng đạt vận tốc cao, bình quân thời đoạn 2001-2005 đạt 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt khoảng 2,4 triệu đồng/năm, hệ thống điện – đường – trường – trạm được đầu tư phục vụ nhu cầu của người dân. Phấn đấu tới năm 2010 sẽ giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 26% xuống còn 15%.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát thành phố Hà Giang” state=”close”]
Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang
Video về: Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang
Wiki về Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang
Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang -
Thành thị Hà Giang được thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1891 và được tái lập ngày 1 tháng 10 năm 1991. Vị trí địa lý: Là một tỉnh miền núi, nằm ở cực bắc Tổ quốc, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam và Quảng Tây - Trung Quốc có đường biên giới dài 274 km. Phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Diện tích tự nhiên 7.884,37km2 Địa hình: Do cấu trúc địa hình phức tạp, tự nhiên tạo dựng và ưu đãi cho Hà Giang nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên, tài nguyên...
Từ đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình Thành thị Hà Giang được phân thành ba vùng với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội không giống nhau, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng, đó là:
– Khu vực I: Là vùng núi phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ. Diện tích toàn vùng 2.352,7 km2, dân số trên 200.000 người, chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do có khí hậu lạnh về mùa đông, mát về mùa hè nên rất thích hợp cho việc tăng trưởng các loại cây ôn đới như dược liệu, thảo quả, đỗ trọng; Các loại cây ăn quả như mận, đào, lê, táo... Cây lương thực chính ở vùng này là ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong lấy mật. Các giống bò trên là đặc trưng của vùng ôn đới, có đặc điểm to lớn hơn và chịu lạnh tới âm độ. Đàn ong ở đây chủ yếu chỉ tăng trưởng vụ hè thu với 2 loại hoa chính là hoa ngô đồng và hoa bạc hà. Mật ong hoa bạc hà là loại mật ong đặc thù có trị giá trong việc chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe.
– Khu vực II: Là vùng núi phía Tây gồm các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km2, dân số chiếm 15,9%. Điều kiện tự nhiên của khu vực này thích hợp cho sự tăng trưởng của cây truffle và cây thông. Cây lương thực chính ở vùng này là lúa nước và ngô. Vật nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và gia cầm. Khu vực này là xứ sở của chè Shan tuyết và chủ sở hữu lâu đời của nó là người dân tộc Dao - một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời. đời sống.
- Khu vực III: Là vùng núi thấp bao gồm các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang, là vùng kinh tế trọng tâm của Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.320,3 km2, dân số chiếm 49,8%. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận tiện cho việc tăng trưởng lâm nghiệp, trồng các loại cây giấy như bồ đề, mỡ, thông, và đây cũng là vùng có diện tích tre lớn nhất. Ngoài ra, đây còn là vùng chuyên canh các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, chanh… Khí hậu: mang tính chất nhiệt đới gió mùa cao nguyên, mang nhiều sắc thái của khí hậu ôn đới. Dân số: Hơn 680.000 người. Dân tộc: 22 dân tộc anh em cùng chung sống tạo nên sự nhiều chủng loại về bản sắc văn hóa. Trong đó, dân tộc Mông chiếm 30,6%, dân tộc Tày chiếm 24,9%, dân tộc Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%.
Đơn vị hành chính: thành thị Hà Giang có một thị xã trung tâm và 10 huyện, tổng số 195 xã, phường, thị trấn, trong đó có 112 xã đặc thù khó khăn. Cơ sở hạ tầng: Đường giao thông chính tới Hà Giang là Quốc lộ 2. Năm 2000, 100% số xã có đường oto tới trung tâm. Lưới điện tăng trưởng rộng khắp, tới nay toàn tỉnh có 184 xã, phường, thị trấn được nối điện lưới quốc gia; Hệ thống lưới điện đảm bảo cung ứng cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bưu chính viễn thông đã tới tận các xã vùng sâu, vùng xa, mạng cáp quang liên tỉnh đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 11 huyện, thị xã có điện thoại di động, 100% xã, phường có điện thoại.
Tài nguyên tự nhiên: Tỉnh có 9 nhóm đất, trong đó chủ yếu là đất xám bạc màu, rất thích hợp cho tăng trưởng cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn quả. Hà Giang có diện tích rừng lớn với 345.860ha rừng tự nhiên, nhiều khu rừng nguyên sinh có động vật quý và nhiều loại gỗ quý, dược liệu quý. Tài nguyên nước có tiềm năng lớn cho tăng trưởng thủy điện. Về tài nguyên tài nguyên Hà Giang có 28 loại tài nguyên không giống nhau, trong đó có nhiều loại có trữ lượng lớn, hàm lượng khoáng cao.
Cơ cấu kinh tế: Dịch chuyển theo hướng giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đời sống nhân dân: GDP tăng trưởng đạt vận tốc cao, bình quân thời đoạn 2001-2005 đạt 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt khoảng 2,4 triệu đồng/năm, hệ thống điện - đường - trường - trạm được đầu tư phục vụ nhu cầu của người dân. Phấn đấu tới năm 2010 sẽ giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 26% xuống còn 15%.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/06/Untitled-1-Recovered-min-6.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Giới thiệu khái quát về thành phố Hà Giang” title=”Toàn cảnh thành phố Hà Giang – tỉnh Hà Giang – vansudia.net”>
Thành phố Hà Giang được thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1891 và được tái lập ngày 1 tháng 10 năm 1991. Vị trí địa lý: Là một tỉnh miền núi, nằm ở cực bắc Tổ quốc, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam và Quảng Tây – Trung Quốc có đường biên giới dài 274 km. Phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Diện tích tự nhiên 7.884,37km2 Địa hình: Do cấu trúc địa hình phức tạp, thiên nhiên tạo dựng và ưu đãi cho Hà Giang nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên, khoáng sản…
Từ đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình Thành phố Hà Giang được chia thành ba vùng với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng, đó là:
– Khu vực I: Là vùng núi phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ. Diện tích toàn vùng 2.352,7 km2, dân số trên 200.000 người, chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do có khí hậu lạnh về mùa đông, mát về mùa hè nên rất thích hợp cho việc phát triển các loại cây ôn đới như dược liệu, thảo quả, đỗ trọng; Các loại cây ăn quả như mận, đào, lê, táo… Cây lương thực chính ở vùng này là ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong lấy mật. Các giống bò trên là đặc trưng của vùng ôn đới, có đặc điểm to lớn hơn và chịu lạnh đến âm độ. Đàn ong ở đây chủ yếu chỉ phát triển vụ hè thu với 2 loại hoa chính là hoa ngô đồng và hoa bạc hà. Mật ong hoa bạc hà là loại mật ong đặc biệt có giá trị trong việc chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe.
– Khu vực II: Là vùng núi phía Tây gồm các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km2, dân số chiếm 15,9%. Điều kiện tự nhiên của khu vực này phù hợp cho sự phát triển của cây truffle và cây thông. Cây lương thực chính ở vùng này là lúa nước và ngô. Vật nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và gia cầm. Khu vực này là xứ sở của chè Shan tuyết và chủ nhân lâu đời của nó là người dân tộc Dao – một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời. đời sống.
– Khu vực III: Là vùng núi thấp bao gồm các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang, là vùng kinh tế trọng điểm của Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.320,3 km2, dân số chiếm 49,8%. Điều kiện tự nhiên phù hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng các loại cây giấy như bồ đề, mỡ, thông, và đây cũng là vùng có diện tích tre lớn nhất. Ngoài ra, đây còn là vùng chuyên canh các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, chanh… Khí hậu: mang tính chất nhiệt đới gió mùa cao nguyên, mang nhiều sắc thái của khí hậu ôn đới. Dân số: Hơn 680.000 người. Dân tộc: 22 dân tộc anh em cùng chung sống tạo nên sự đa dạng về bản sắc văn hóa. Trong đó, dân tộc Mông chiếm 30,6%, dân tộc Tày chiếm 24,9%, dân tộc Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%.
Đơn vị hành chính: thành phố Hà Giang có một thị xã trung tâm và 10 huyện, tổng số 195 xã, phường, thị trấn, trong đó có 112 xã đặc biệt khó khăn. Cơ sở hạ tầng: Đường giao thông chính đến Hà Giang là Quốc lộ 2. Năm 2000, 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm. Lưới điện phát triển rộng khắp, đến nay toàn tỉnh có 184 xã, phường, thị trấn được nối điện lưới quốc gia; Hệ thống lưới điện đảm bảo cung cấp cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bưu chính viễn thông đã đến tận các xã vùng sâu, vùng xa, mạng cáp quang liên tỉnh đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 11 huyện, thị xã có điện thoại di động, 100% xã, phường có điện thoại.
Tài nguyên thiên nhiên: Tỉnh có 9 nhóm đất, trong đó chủ yếu là đất xám bạc màu, rất thích hợp cho phát triển cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn quả. Hà Giang có diện tích rừng lớn với 345.860ha rừng tự nhiên, nhiều khu rừng nguyên sinh có động vật quý và nhiều loại gỗ quý, dược liệu quý. Tài nguyên nước có tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Về tài nguyên khoáng sản Hà Giang có 28 loại khoáng sản khác nhau, trong đó có nhiều loại có trữ lượng lớn, hàm lượng khoáng cao.
Cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông – lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đời sống nhân dân: GDP tăng trưởng đạt tốc độ cao, bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt khoảng 2,4 triệu đồng/năm, hệ thống điện – đường – trường – trạm được đầu tư đáp ứng nhu cầu của người dân. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 26% xuống còn 15%.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #thành #phố #Hà #Giang
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung thành thị Hà Giang bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #thành #phố #Hà #Giang
Trả lời