Quận 9 có diện tích tự nhiên 11.362 ha với 126.220 nhân khẩu lúc mới thành lập. Quận 9 nằm về phía Đông của Thành thị Hồ Chí Minh, cách trung tâm thị thành khoảng 7 km theo xa lộ Hà Nội, về phía Đông giáp Huyện Nhơn Trạch, tỉnh đồng nai lấy sông Đồng Nai làm ranh giới tự nhiên, phía Tây giáp Quận Thủ Đứclấy ranh giới phía Nam giáp Quận 2 và sông Đồng Nai, phía Bắc giáp TP.Biên Hòa tỉnh Đồng Nai.
Quận 9 vào đầu công nguyên là vùng đất hoang vu rừng rậm và đầm lầy, thú rừng sống thành bầy đàn, dân cư thưa thớt, đa số sống ở vùng cao chuyên canh tác nương rẫy, chăn nuôi và săn bắt, ko quen địa bàn. sản xuất lúa nước.
Từ thế kỷ XV, sau lúc cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hậu Trần thất bại, tàn quân rút chạy vào Thuận Hóa một đường lớn, một số trốn sang Lào, một số sang Chiêm Thành, số còn lại đều có sẵn. Tàu chiến, vũ khí, lương thực chạy thẳng vào Nam, đổ bộ lên đất Mô Xoài tị nạn, giống như hơn 200 sau tàn quân Long Môn của nhà Thanh chạy vào Nam Kỳ tị nạn nhà Thanh. Những người dân này đã bắt tay vào phát rừng, cày sình, trồng lúa nước vốn là một ngành nông nghiệp thân thuộc trên quê hương xưa. Họ chung sống hòa thuận với người dân bản địa, tạo thành một quần thể ngày càng đông đảo.
Sau đó, từ năm 1623, với ý định mở rộng thêm đất đai cho lưu dân sinh sống, các chúa Nguyễn đã dùng chính sách ngoại giao khôn khéo, tạo thiện cảm với vương triều Chân Lạp, để đưa lưu dân tới đây. từ vùng Thuận Quảng vào lập nghiệp. Tới năm 1698, dân số toàn vùng đã lên tới hơn 40.000 hộ, với hơn nghìn dặm đất canh tác, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ bộ hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào đây thỉnh kinh, lấy đất Đồng Nai. lập Gia Định. Nhà Đinh, lấy đất miền Đông lập huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên, đất Sài Gòn lập quận Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đặt quan cai quản chính sự, binh giữ quốc.
Ban sơ, quận Phước Long có 4 tổng: Tân Chánh, Bình An, Long Thành và Phước An. Phần đất quận 9 ngày nay thuộc địa phận tổng Long Thành. Năm Gia Long thứ 7 (1808), huyện Phước Long nâng lên 4 huyện Phước Long nâng lên thành huyện Phước Long, 4 tổng nâng lên 4 huyện. Mỗi quận được phân thành hai tổng Long Vĩnh và Thành Thành Tuy, trên đầu hai tổng có đặt hai chữ cái tên quận. Địa bàn quận 9 nay thuộc tổng Long Vĩnh. Tổng Long Vĩnh lúc bấy giờ có 34 xã, thôn, phường, ấp, một số xã còn được lưu giữ tới ngày nay như Long Trường, Phước Thiền, Long Đại, v.v.
Tới đời Minh Mạng năm thứ 2 (1821), nhân khẩu tăng, đất đai được khai phá, mở rộng nhiều thôn xóm mới. Do đó, tích của hai tổng được phân thành bốn tổng. Để giữ nguyên tên các tổng mới, người ta chỉ thêm chữ Thượng và Hạ, như Long Vĩnh Thượng, Thành Tuy Hạ. Từ trước cho tới năm 1836, với những chính sách khuyến nông hết sức linh hoạt của các chúa Nguyễn, và sau đó là các vua Nguyễn, nhân dân khai phá ruộng bao nhiêu, khai phường, làng nào nộp thuế, đòi bao nhiêu thì nộp bấy nhiêu. có thể, ko có phép đo trên thuộc địa. Đơn vị tính thuế được gọi là thửa, thửa, xâu chứ không kể theo sào mẫu hay bãi. Vì vậy, tới năm 1836, vua Minh Mạng mới cử sứ bộ Trương Đăng Quế là Trương Minh Giảng đi khảo sát toàn thể vùng đất ở cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Từ đó các thôn, phường mới có địa danh chính thức. Tới năm Minh Mạng thứ 18 (1837), địa giới hành chính tỉnh Biên Hòa thay đổi. Các huyện Long Thành và Phước An được tách khỏi phủ Phước Long để lập phủ mới lấy tên là Phước Tuy. Tình trạng đó kéo dài cho tới lúc Pháp xâm lăng tỉnh Biên Hòa, lập chính quyền đô hộ.
Sau lúc làm chủ ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), người Pháp muốn thực hiện chính sách thống trị trực tiếp nên bỏ tất cả các đơn vị quản lý tỉnh, phủ, huyện để chia tỉnh thành 13 quận (Arrondisements). . trong đó tỉnh Biên Hòa cũ được phân thành 5 huyện. Trong đó 5 huyện thuộc tỉnh Biên Hòa cũ có huyện Long Thành bao gồm thị trấn Long Thành và huyện Long Thành cũ. Đứng đầu mỗi quận là một viên quan người Pháp gọi là Giám đốc địa phương (Directeur des Affaires indigènes) trực thuộc Giám đốc cao cấp địa phương (Directeur Supérieur des Affaires indigènes) đóng tại Sài Gòn. Năm 1867, sau lúc chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ, người Pháp chia toàn vùng thành 24 đơn vị hành chính gọi là hạt thanh tra (Inspections), sau đổi thành tham tá (Administrateur). Nơi đặt trụ sở gọi là tòa tham tá, người Việt Nam quen gọi là tòa Bố. Hạt Long Thành cũ vẫn giữ nguyên tên và địa giới, có 10 tổng và 105 thôn. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định giải thể Tòa Tham tán Long Thành, sáp nhập đất đai vào các châu phụ cận, do đó các làng Long Vĩnh Hạ được sáp nhập vào Địa hạt Tham tán. Sài Gòn. 1885 Hạt Sài Gòn đổi tên thành hạt Gia Định 1889 đổi thành tỉnh Gia Định theo lệnh của toàn quyền Đông Dương. Tỉnh Gia Định lúc bấy giờ có 8 tổng với 190 xã, thôn. Long Vĩnh Hạ sau trở thành địa bàn Quận 9 gồm 11 xã, thôn: Chí Thạnh, Ích Thạnh, Long Đại, Long Hậu, Long Sơn, Long Tuy, Mỹ Thạnh, Phước Hậu, Phước Thiện, Phước Thới, Vĩnh Thuận .
Sau một thời kì thực hiện chính sách trực trị ko thành công, tới những năm 1920, người Pháp buộc phải đặt lại cấp huyện dưới thời nhà Nguyễn, lấy tên thống nhất là một huyện, dưới sự chia cắt của tỉnh Gia Định. thành 4 quận: Thủ Đức, nội tiết tố, Gò Vấp và Nhà Bè. Các làng được sáp nhập vào các xã. Lúc bấy giờ quận Thủ Đức có 5 tổng với 19 xã. Các ngành hành chính trên tồn tại cho tới Cách mệnh Tháng Tám năm 1945. Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, mọi khả năng của hai bên đều tập trung cho vấn đề quân sự, ko có thời kì và điều kiện để cải cách hành chính. . Nhưng sau Hiệp nghị Giơnevơ, hòa bình lập lại, ở miền Nam chính quyền Sài Gòn khởi đầu sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên diện rộng. Theo chủ trương đó, hai tổng An Thủy và Long Vĩnh Hạ của quận Thủ Đức được tách ra và sáp nhập với Chánh Mỹ Thượng của hai huyện Châu Thành và Biên Hòa để lập thành một quận mới Dĩ An thuộc tỉnh Biên Hòa. Từ đây cấp tổng chỉ còn trên danh nghĩa, ko còn trên thực tiễn. Các xã làm việc trực tiếp với huyện. Ngày 10 tháng 10 năm 1965, Long Vĩnh Hà lại được tách khỏi huyện Dĩ An và sáp nhập lại vào quận Thủ Đức. Tới năm 1965, quận Thủ Đức có 15 xã: An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình, Linh Đông, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi.
Năm 1967, tách xã An Khánh khỏi quận Thủ Đức, sáp nhập vào thị thành Sài Gòn và thành lập quận 9 với hai phường An Khánh và Thủ Thiêm. Qua năm 1972 trên khu vực Thủ Đức lập thêm một xã mới là xã Phước Bình. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mệnh sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên khu vực thị thành, quận Thủ Đức được gọi là quận ngoại thành. Một số xã quá rộng được phân thành các xã mới, quận 9 bị giải thể. Hai phường An Khánh và Thủ Thiêm được trả về quận Thủ Đức và gọi là xã, nâng tổng số đơn vị hành chính của quận lên 23 gồm thị trấn Thủ Đức và 22 xã An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình. Chánh, Hiệp Bình Phước, Hiệp Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phước Bình, Phú Hữu, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi , Thủ Thiêm, Tam Phú, Tân Phú.
Nghị định số 03-CP ngày 01 tháng 01 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Quận 9 trên cơ sở toàn thể diện tích và dân số của các xã Long Bình, Long Thạnh Mỹ, Long Phước, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Tăng Nhơn Phú, cộng 484 ha diện tích tự nhiên và 15.794 nhân khẩu của xã Phước Long, 891 ha diện tích tự nhiên và 13.493 nhân khẩu của xã Hiệp Phú, 140 ha diện tích tự nhiên và nhân khẩu trở lên được phân thành 13 phường với tên gọi như sau:
- Phường Phước Long A
- phường Phước Long
- Phường Tăng Nhơn Phú A
- Phường Tăng Nhơn Phú BE
- Phường Long Trường
- Phường Trường Thạnh
- phường phước bình
- Phường Tân Phú
- Hiệp Phú
- Phường Long Thạnh Mỹ
- Phường Long Bình
- Phường Long Phước
- phường phú hữu
Quận 9 vốn là vùng nông thôn hẻo lánh của quận Thủ Đức cũ, là vùng tự do đánh phá của Mỹ và quân đội Sài Gòn trước đây nên so với các quận khác về mọi mặt còn yếu hơn nhiều về mọi mặt. thị thành. thị thành. Tuy nhiên, Quận 9 có lợi thế tự nhiên, hai bên giáp sông Đồng Nai, có trục đường chạy suốt chiều dài của quận để kết nối với trung tâm TP.HCM và TP.Biên Hòa, đó là Xa lộ Hà Nội. và Hương lộ 33 có khu giải trí tiêu khiển Suối Tiên, Thủ Đức Lâm Viên và nay mai còn có trung tâm văn hóa của thị thành, quận 9 có triển vọng tăng trưởng mạnh về du lịch sinh thái trong tương lai.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát quận 9″ state=”close”]
Giới thiệu nói chung quận 9
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung quận 9
Video về: Giới thiệu nói chung quận 9
Wiki về Giới thiệu nói chung quận 9
Giới thiệu nói chung quận 9 -
Quận 9 có diện tích tự nhiên 11.362 ha với 126.220 nhân khẩu lúc mới thành lập. Quận 9 nằm về phía Đông của Thành thị Hồ Chí Minh, cách trung tâm thị thành khoảng 7 km theo xa lộ Hà Nội, về phía Đông giáp Huyện Nhơn Trạch, tỉnh đồng nai lấy sông Đồng Nai làm ranh giới tự nhiên, phía Tây giáp Quận Thủ Đứclấy ranh giới phía Nam giáp Quận 2 và sông Đồng Nai, phía Bắc giáp TP.Biên Hòa tỉnh Đồng Nai.
Quận 9 vào đầu công nguyên là vùng đất hoang vu rừng rậm và đầm lầy, thú rừng sống thành bầy đàn, dân cư thưa thớt, đa số sống ở vùng cao chuyên canh tác nương rẫy, chăn nuôi và săn bắt, ko quen địa bàn. sản xuất lúa nước.
Từ thế kỷ XV, sau lúc cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hậu Trần thất bại, tàn quân rút chạy vào Thuận Hóa một đường lớn, một số trốn sang Lào, một số sang Chiêm Thành, số còn lại đều có sẵn. Tàu chiến, vũ khí, lương thực chạy thẳng vào Nam, đổ bộ lên đất Mô Xoài tị nạn, giống như hơn 200 sau tàn quân Long Môn của nhà Thanh chạy vào Nam Kỳ tị nạn nhà Thanh. Những người dân này đã bắt tay vào phát rừng, cày sình, trồng lúa nước vốn là một ngành nông nghiệp thân thuộc trên quê hương xưa. Họ chung sống hòa thuận với người dân bản địa, tạo thành một quần thể ngày càng đông đảo.
Sau đó, từ năm 1623, với ý định mở rộng thêm đất đai cho lưu dân sinh sống, các chúa Nguyễn đã dùng chính sách ngoại giao khôn khéo, tạo thiện cảm với vương triều Chân Lạp, để đưa lưu dân tới đây. từ vùng Thuận Quảng vào lập nghiệp. Tới năm 1698, dân số toàn vùng đã lên tới hơn 40.000 hộ, với hơn nghìn dặm đất canh tác, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ bộ hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào đây thỉnh kinh, lấy đất Đồng Nai. lập Gia Định. Nhà Đinh, lấy đất miền Đông lập huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên, đất Sài Gòn lập quận Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đặt quan cai quản chính sự, binh giữ quốc.
Ban sơ, quận Phước Long có 4 tổng: Tân Chánh, Bình An, Long Thành và Phước An. Phần đất quận 9 ngày nay thuộc địa phận tổng Long Thành. Năm Gia Long thứ 7 (1808), huyện Phước Long nâng lên 4 huyện Phước Long nâng lên thành huyện Phước Long, 4 tổng nâng lên 4 huyện. Mỗi quận được phân thành hai tổng Long Vĩnh và Thành Thành Tuy, trên đầu hai tổng có đặt hai chữ cái tên quận. Địa bàn quận 9 nay thuộc tổng Long Vĩnh. Tổng Long Vĩnh lúc bấy giờ có 34 xã, thôn, phường, ấp, một số xã còn được lưu giữ tới ngày nay như Long Trường, Phước Thiền, Long Đại, v.v.
Tới đời Minh Mạng năm thứ 2 (1821), nhân khẩu tăng, đất đai được khai phá, mở rộng nhiều thôn xóm mới. Do đó, tích của hai tổng được phân thành bốn tổng. Để giữ nguyên tên các tổng mới, người ta chỉ thêm chữ Thượng và Hạ, như Long Vĩnh Thượng, Thành Tuy Hạ. Từ trước cho tới năm 1836, với những chính sách khuyến nông hết sức linh hoạt của các chúa Nguyễn, và sau đó là các vua Nguyễn, nhân dân khai phá ruộng bao nhiêu, khai phường, làng nào nộp thuế, đòi bao nhiêu thì nộp bấy nhiêu. có thể, ko có phép đo trên thuộc địa. Đơn vị tính thuế được gọi là thửa, thửa, xâu chứ không kể theo sào mẫu hay bãi. Vì vậy, tới năm 1836, vua Minh Mạng mới cử sứ bộ Trương Đăng Quế là Trương Minh Giảng đi khảo sát toàn thể vùng đất ở cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Từ đó các thôn, phường mới có địa danh chính thức. Tới năm Minh Mạng thứ 18 (1837), địa giới hành chính tỉnh Biên Hòa thay đổi. Các huyện Long Thành và Phước An được tách khỏi phủ Phước Long để lập phủ mới lấy tên là Phước Tuy. Tình trạng đó kéo dài cho tới lúc Pháp xâm lăng tỉnh Biên Hòa, lập chính quyền đô hộ.
Sau lúc làm chủ ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), người Pháp muốn thực hiện chính sách thống trị trực tiếp nên bỏ tất cả các đơn vị quản lý tỉnh, phủ, huyện để chia tỉnh thành 13 quận (Arrondisements). . trong đó tỉnh Biên Hòa cũ được phân thành 5 huyện. Trong đó 5 huyện thuộc tỉnh Biên Hòa cũ có huyện Long Thành bao gồm thị trấn Long Thành và huyện Long Thành cũ. Đứng đầu mỗi quận là một viên quan người Pháp gọi là Giám đốc địa phương (Directeur des Affaires indigènes) trực thuộc Giám đốc cao cấp địa phương (Directeur Supérieur des Affaires indigènes) đóng tại Sài Gòn. Năm 1867, sau lúc chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ, người Pháp chia toàn vùng thành 24 đơn vị hành chính gọi là hạt thanh tra (Inspections), sau đổi thành tham tá (Administrateur). Nơi đặt trụ sở gọi là tòa tham tá, người Việt Nam quen gọi là tòa Bố. Hạt Long Thành cũ vẫn giữ nguyên tên và địa giới, có 10 tổng và 105 thôn. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định giải thể Tòa Tham tán Long Thành, sáp nhập đất đai vào các châu phụ cận, do đó các làng Long Vĩnh Hạ được sáp nhập vào Địa hạt Tham tán. Sài Gòn. 1885 Hạt Sài Gòn đổi tên thành hạt Gia Định 1889 đổi thành tỉnh Gia Định theo lệnh của toàn quyền Đông Dương. Tỉnh Gia Định lúc bấy giờ có 8 tổng với 190 xã, thôn. Long Vĩnh Hạ sau trở thành địa bàn Quận 9 gồm 11 xã, thôn: Chí Thạnh, Ích Thạnh, Long Đại, Long Hậu, Long Sơn, Long Tuy, Mỹ Thạnh, Phước Hậu, Phước Thiện, Phước Thới, Vĩnh Thuận .
Sau một thời kì thực hiện chính sách trực trị ko thành công, tới những năm 1920, người Pháp buộc phải đặt lại cấp huyện dưới thời nhà Nguyễn, lấy tên thống nhất là một huyện, dưới sự chia cắt của tỉnh Gia Định. thành 4 quận: Thủ Đức, nội tiết tố, Gò Vấp và Nhà Bè. Các làng được sáp nhập vào các xã. Lúc bấy giờ quận Thủ Đức có 5 tổng với 19 xã. Các ngành hành chính trên tồn tại cho tới Cách mệnh Tháng Tám năm 1945. Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, mọi khả năng của hai bên đều tập trung cho vấn đề quân sự, ko có thời kì và điều kiện để cải cách hành chính. . Nhưng sau Hiệp nghị Giơnevơ, hòa bình lập lại, ở miền Nam chính quyền Sài Gòn khởi đầu sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên diện rộng. Theo chủ trương đó, hai tổng An Thủy và Long Vĩnh Hạ của quận Thủ Đức được tách ra và sáp nhập với Chánh Mỹ Thượng của hai huyện Châu Thành và Biên Hòa để lập thành một quận mới Dĩ An thuộc tỉnh Biên Hòa. Từ đây cấp tổng chỉ còn trên danh nghĩa, ko còn trên thực tiễn. Các xã làm việc trực tiếp với huyện. Ngày 10 tháng 10 năm 1965, Long Vĩnh Hà lại được tách khỏi huyện Dĩ An và sáp nhập lại vào quận Thủ Đức. Tới năm 1965, quận Thủ Đức có 15 xã: An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình, Linh Đông, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi.
Năm 1967, tách xã An Khánh khỏi quận Thủ Đức, sáp nhập vào thị thành Sài Gòn và thành lập quận 9 với hai phường An Khánh và Thủ Thiêm. Qua năm 1972 trên khu vực Thủ Đức lập thêm một xã mới là xã Phước Bình. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mệnh sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên khu vực thị thành, quận Thủ Đức được gọi là quận ngoại thành. Một số xã quá rộng được phân thành các xã mới, quận 9 bị giải thể. Hai phường An Khánh và Thủ Thiêm được trả về quận Thủ Đức và gọi là xã, nâng tổng số đơn vị hành chính của quận lên 23 gồm thị trấn Thủ Đức và 22 xã An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình. Chánh, Hiệp Bình Phước, Hiệp Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phước Bình, Phú Hữu, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi , Thủ Thiêm, Tam Phú, Tân Phú.
Nghị định số 03-CP ngày 01 tháng 01 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Quận 9 trên cơ sở toàn thể diện tích và dân số của các xã Long Bình, Long Thạnh Mỹ, Long Phước, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Tăng Nhơn Phú, cộng 484 ha diện tích tự nhiên và 15.794 nhân khẩu của xã Phước Long, 891 ha diện tích tự nhiên và 13.493 nhân khẩu của xã Hiệp Phú, 140 ha diện tích tự nhiên và nhân khẩu trở lên được phân thành 13 phường với tên gọi như sau:
- Phường Phước Long A
- phường Phước Long
- Phường Tăng Nhơn Phú A
- Phường Tăng Nhơn Phú BE
- Phường Long Trường
- Phường Trường Thạnh
- phường phước bình
- Phường Tân Phú
- Hiệp Phú
- Phường Long Thạnh Mỹ
- Phường Long Bình
- Phường Long Phước
- phường phú hữu
Quận 9 vốn là vùng nông thôn hẻo lánh của quận Thủ Đức cũ, là vùng tự do đánh phá của Mỹ và quân đội Sài Gòn trước đây nên so với các quận khác về mọi mặt còn yếu hơn nhiều về mọi mặt. thị thành. thị thành. Tuy nhiên, Quận 9 có lợi thế tự nhiên, hai bên giáp sông Đồng Nai, có trục đường chạy suốt chiều dài của quận để kết nối với trung tâm TP.HCM và TP.Biên Hòa, đó là Xa lộ Hà Nội. và Hương lộ 33 có khu giải trí tiêu khiển Suối Tiên, Thủ Đức Lâm Viên và nay mai còn có trung tâm văn hóa của thị thành, quận 9 có triển vọng tăng trưởng mạnh về du lịch sinh thái trong tương lai.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 506″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/BDQ9-min.jpg” sizes=”(max-width: 506px) 100vw, 506px” alt=”Tổng quan về Quận 9″ title=”Tổng quan Quận 9 – TP.HCM – vansudia.net”>
Quận 9 có diện tích tự nhiên 11.362 ha với 126.220 nhân khẩu khi mới thành lập. Quận 9 nằm về phía Đông của Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố khoảng 7 km theo xa lộ Hà Nội, về phía Đông giáp Huyện Nhơn Trạch, tỉnh đồng nai lấy sông Đồng Nai làm ranh giới tự nhiên, phía Tây giáp Quận Thủ Đứclấy ranh giới phía Nam giáp Quận 2 và sông Đồng Nai, phía Bắc giáp TP.Biên Hòa tỉnh Đồng Nai.
Quận 9 vào đầu công nguyên là vùng đất hoang vu rừng rậm và đầm lầy, thú rừng sống thành bầy đàn, dân cư thưa thớt, đa số sống ở vùng cao chuyên canh tác nương rẫy, chăn nuôi và săn bắt, không quen địa bàn. sản xuất lúa nước.
Từ thế kỷ XV, sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hậu Trần thất bại, tàn quân rút chạy vào Thuận Hóa một đường lớn, một số trốn sang Lào, một số sang Chiêm Thành, số còn lại đều có sẵn. Tàu chiến, vũ khí, lương thực chạy thẳng vào Nam, đổ bộ lên đất Mô Xoài lánh nạn, giống như hơn 200 sau tàn quân Long Môn của nhà Thanh chạy vào Nam Kỳ lánh nạn nhà Thanh. Những người dân này đã bắt tay vào phát rừng, cày sình, trồng lúa nước vốn là một ngành nông nghiệp quen thuộc trên quê hương xưa. Họ chung sống hòa thuận với người dân bản địa, tạo thành một quần thể ngày càng đông đảo.
Sau đó, từ năm 1623, với ý định mở mang thêm đất đai cho lưu dân sinh sống, các chúa Nguyễn đã dùng chính sách ngoại giao khôn khéo, tạo thiện cảm với vương triều Chân Lạp, để đưa lưu dân đến đây. từ vùng Thuận Quảng vào lập nghiệp. Đến năm 1698, dân số toàn vùng đã lên tới hơn 40.000 hộ, với hơn ngàn dặm đất canh tác, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ bộ hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào đây thỉnh kinh, lấy đất Đồng Nai. lập Gia Định. Nhà Đinh, lấy đất miền Đông lập huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên, đất Sài Gòn lập quận Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đặt quan cai quản chính sự, binh giữ quốc.
Ban đầu, quận Phước Long có 4 tổng: Tân Chánh, Bình An, Long Thành và Phước An. Phần đất quận 9 ngày nay thuộc địa phận tổng Long Thành. Năm Gia Long thứ 7 (1808), huyện Phước Long nâng lên 4 huyện Phước Long nâng lên thành huyện Phước Long, 4 tổng nâng lên 4 huyện. Mỗi quận được chia thành hai tổng Long Vĩnh và Thành Thành Tuy, trên đầu hai tổng có đặt hai chữ cái tên quận. Địa bàn quận 9 nay thuộc tổng Long Vĩnh. Tổng Long Vĩnh lúc bấy giờ có 34 xã, thôn, phường, ấp, một số xã còn được lưu giữ đến ngày nay như Long Trường, Phước Thiền, Long Đại, v.v.
Đến đời Minh Mạng năm thứ 2 (1821), nhân khẩu tăng, đất đai được khai khẩn, mở mang nhiều thôn xóm mới. Do đó, tích của hai tổng được chia thành bốn tổng. Để giữ nguyên tên các tổng mới, người ta chỉ thêm chữ Thượng và Hạ, như Long Vĩnh Thượng, Thành Tuy Hạ. Từ trước cho đến năm 1836, với những chính sách khuyến nông hết sức cởi mở của các chúa Nguyễn, và sau đó là các vua Nguyễn, nhân dân khai khẩn ruộng bao nhiêu, khai phường, làng nào nộp thuế, đòi bao nhiêu thì nộp bấy nhiêu. có thể, không có phép đo trên thuộc địa. Đơn vị tính thuế được gọi là thửa, thửa, xâu chứ không tính theo sào mẫu hay bãi. Vì vậy, đến năm 1836, vua Minh Mạng mới cử sứ bộ Trương Đăng Quế là Trương Minh Giảng đi khảo sát toàn bộ vùng đất ở cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Từ đó các thôn, phường mới có địa danh chính thức. Đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837), địa giới hành chính tỉnh Biên Hòa thay đổi. Các huyện Long Thành và Phước An được tách khỏi phủ Phước Long để lập phủ mới lấy tên là Phước Tuy. Tình trạng đó kéo dài cho đến khi Pháp đánh chiếm tỉnh Biên Hòa, lập chính quyền đô hộ.
Sau khi làm chủ ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), người Pháp muốn thực hiện chính sách cai trị trực tiếp nên bỏ tất cả các cấp tỉnh, phủ, huyện để chia tỉnh thành 13 quận (Arrondisements). . trong đó tỉnh Biên Hòa cũ được chia thành 5 huyện. Trong đó 5 huyện thuộc tỉnh Biên Hòa cũ có huyện Long Thành bao gồm thị trấn Long Thành và huyện Long Thành cũ. Đứng đầu mỗi quận là một viên quan người Pháp gọi là Giám đốc địa phương (Directeur des Affaires indigènes) trực thuộc Giám đốc cao cấp địa phương (Directeur Supérieur des Affaires indigènes) đóng tại Sài Gòn. Năm 1867, sau khi chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ, người Pháp chia toàn vùng thành 24 đơn vị hành chính gọi là hạt thanh tra (Inspections), sau đổi thành tham biện (Administrateur). Nơi đặt trụ sở gọi là tòa tham biện, người Việt Nam quen gọi là tòa Bố. Hạt Long Thành cũ vẫn giữ nguyên tên và địa giới, có 10 tổng và 105 thôn. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định giải tán Tòa Tham tán Long Thành, sáp nhập đất đai vào các châu lân cận, do đó các làng Long Vĩnh Hạ được sáp nhập vào Địa hạt Tham tán. Sài Gòn. 1885 Hạt Sài Gòn đổi tên thành hạt Gia Định 1889 đổi thành tỉnh Gia Định theo lệnh của toàn quyền Đông Dương. Tỉnh Gia Định lúc bấy giờ có 8 tổng với 190 xã, thôn. Long Vĩnh Hạ sau trở thành địa bàn Quận 9 gồm 11 xã, thôn: Chí Thạnh, Ích Thạnh, Long Đại, Long Hậu, Long Sơn, Long Tuy, Mỹ Thạnh, Phước Hậu, Phước Thiện, Phước Thới, Vĩnh Thuận .
Sau một thời gian thực hiện chính sách trực trị không thành công, đến những năm 1920, người Pháp buộc phải đặt lại cấp huyện dưới thời nhà Nguyễn, lấy tên thống nhất là một huyện, dưới sự chia cắt của tỉnh Gia Định. thành 4 quận: Thủ Đức, nội tiết tố, Gò Vấp và Nhà Bè. Các làng được sáp nhập vào các xã. Lúc bấy giờ quận Thủ Đức có 5 tổng với 19 xã. Các cấp hành chính trên tồn tại cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, mọi khả năng của hai bên đều tập trung cho vấn đề quân sự, không có thời gian và điều kiện để cải cách hành chính. . Nhưng sau Hiệp định Giơnevơ, hòa bình lập lại, ở miền Nam chính quyền Sài Gòn bắt đầu sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên diện rộng. Theo chủ trương đó, hai tổng An Thủy và Long Vĩnh Hạ của quận Thủ Đức được tách ra và sáp nhập với Chánh Mỹ Thượng của hai huyện Châu Thành và Biên Hòa để lập thành một quận mới Dĩ An thuộc tỉnh Biên Hòa. Từ đây cấp tổng chỉ còn trên danh nghĩa, không còn trên thực tế. Các xã làm việc trực tiếp với huyện. Ngày 10 tháng 10 năm 1965, Long Vĩnh Hà lại được tách khỏi huyện Dĩ An và sáp nhập lại vào quận Thủ Đức. Đến năm 1965, quận Thủ Đức có 15 xã: An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình, Linh Đông, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi.
Năm 1967, tách xã An Khánh khỏi quận Thủ Đức, sáp nhập vào thành phố Sài Gòn và thành lập quận 9 với hai phường An Khánh và Thủ Thiêm. Qua năm 1972 trên địa bàn Thủ Đức lập thêm một xã mới là xã Phước Bình. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mạng sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên địa bàn thành phố, quận Thủ Đức được gọi là quận ngoại thành. Một số xã quá rộng được chia thành các xã mới, quận 9 bị giải thể. Hai phường An Khánh và Thủ Thiêm được trả về quận Thủ Đức và gọi là xã, nâng tổng số đơn vị hành chính của quận lên 23 gồm thị trấn Thủ Đức và 22 xã An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình. Chánh, Hiệp Bình Phước, Hiệp Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phước Bình, Phú Hữu, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi , Thủ Thiêm, Tam Phú, Tân Phú.
Nghị định số 03-CP ngày 01 tháng 01 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Quận 9 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của các xã Long Bình, Long Thạnh Mỹ, Long Phước, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Tăng Nhơn Phú, cộng 484 ha diện tích tự nhiên và 15.794 nhân khẩu của xã Phước Long, 891 ha diện tích tự nhiên và 13.493 nhân khẩu của xã Hiệp Phú, 140 ha diện tích tự nhiên và nhân khẩu trở lên được chia thành 13 phường với tên gọi như sau:
- Phường Phước Long A
- phường Phước Long
- Phường Tăng Nhơn Phú A
- Phường Tăng Nhơn Phú BE
- Phường Long Trường
- Phường Trường Thạnh
- phường phước bình
- Phường Tân Phú
- Hiệp Phú
- Phường Long Thạnh Mỹ
- Phường Long Bình
- Phường Long Phước
- phường phú hữu
Quận 9 vốn là vùng nông thôn hẻo lánh của quận Thủ Đức cũ, là vùng tự do đánh phá của Mỹ và quân đội Sài Gòn trước đây nên so với các quận khác về mọi mặt còn yếu hơn nhiều về mọi mặt. thành phố. thành phố. Tuy nhiên, Quận 9 có lợi thế tự nhiên, hai bên giáp sông Đồng Nai, có con đường chạy suốt chiều dài của quận để kết nối với trung tâm TP.HCM và TP.Biên Hòa, đó là Xa lộ Hà Nội. và Hương lộ 33 có khu vui chơi giải trí Suối Tiên, Thủ Đức Lâm Viên và mai đây còn có trung tâm văn hóa của thành phố, quận 9 có triển vọng phát triển mạnh về du lịch sinh thái trong tương lai.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #quận
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung quận 9 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung quận 9 bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #quận
Trả lời