1- Vị trí
Trùng Khánh là huyện biên giới nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Cao Bằng; từ thị xã Cao Bằng theo tỉnh lộ 206 tới trung tâm huyện lỵ dài 62 km, diện tích 469,15 km2dân số gần 50.000 người.
Huyện có tọa độ địa lý: Từ 22042‘09″ tới 22″056’52” vĩ độ Bắc (từ Pác Muội – Đoài Côn tới Phja Mường – Ngọc Khê); từ 106023’49” tới 106″043’56” luồng Đông (đoạn từ Bản Cán – Trung Phúc tới Bản Giốc – thác Đạm Thủy).
Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Hạ Lang, phía Tây giáp huyện Trà Lĩnh, phía Nam giáp huyện Quảng Uyên và Phục Hòa; Phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Tịnh Tây và huyện Đại Tân (Quảng Tây, Trung Quốc).
2 – Quản trị
Huyện có 20 đơn vị hành chính, gồm 19 xã và 1 thị trấn, gồm các xã: Đình Minh, Lăng Hiếu, Lăng Yên, Phong Nẫm, Phong Châu, Ngọc Chung., ngọc khê,Ngọc Côn (năm 2008 mới tách từ xã Ngọc Khê)Đình Phong, Đạm Thủy, Đức Hồng, Canh Tiến, Cao Thắng, Chí Viễn, Thân Giáp, Đoài Côn, Thông Huề, Trung Phúc, Khâm Thành và Thị trấn Trùng Khánh.
Huyện Trùng Khánh có 8 xã biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, chiều dài đường biên giới là 63,15 km, gồm: Lãng Yên, Ngọc Chung, Phong Nẫm, Ngọc Khê, Ngọc Côn, Đình Phong, Chí Viễn, Đạm Thủy. Huyện có cửa khẩu Pò Peo (thuộc xã Ngọc Côn) và nhiều đường mòn dân sinh, nhân dân hai bên biên giới thường xuyên qua lại giao lưu kinh tế, văn hóa,…
3 – Địa hình
Về địa hình, huyện Trùng Khánh có độ cao trung bình từ 600-800 m so với mực nước biển; có cấu trúc địa hình nhiều chủng loại và phức tạp, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen kẽ giữa những dãy núi đá là những thung lũng phẳng phiu, do tự nhiên tạo nên cùng nhiều trí tuệ, sức khai thác của nhân dân các dân tộc từ bao đời nay đã tạo nên những cánh đồng, thửa ruộng trù phú. như các khu vực Ngọc Khê, Đình Phong, Chí Viễn, Trung Phúc, Đạm Thủy, Phong Nẫm, Lăng Hiếu, Phong Châu, Đức Hồng, Cao Thắng,… Đặc điểm địa hình của Trùng Khánh là xen giữa thung lũng phẳng phiu với núi đá , núi nhấp nhô, nhấp nhô nhiều hình thù, tiêu biểu là vùng Ngọc Khê (thuộc xã Ngọc Khê) ven sông Quy Sơn, được dân gian truyền tụng là “vùng núi Hà Lục hữu tình”.
Huyện Trùng Khánh còn có những ngọn núi đá cao, chạy dọc biên giới Việt Nam và Trung Quốc, ở phía Bắc và Đông Bắc, giống như bức bình phong, bức tường thành che chắn. Trong số những dãy núi đó, cao nhất là núi Giàng Mu, thuộc xã Ngọc Khê, có độ cao trên 873 m. Phía Nam và Tây Nam Bộ là địa hình chuyển tiếp của cao nguyên phía Đông (thuộc đới Hạ Lang trong kiến tạo địa chất ở vùng đất giàu tài nguyên quý như mangan, bô xít, thạch anh, ngọc bích,…), tăng dần. từ Nam ra Bắc.
4 – Khí hậu
Do điều kiện địa lý và địa hình, huyện Trùng Khánh chịu tác động nặng nề của khí hậu cận nhiệt đới; thường xuyên chịu tác động trực tiếp của gió mùa, chủ yếu là gió mùa đông bắc. Mùa đông, độ ẩm thấp, khô và lạnh; Mùa hè nóng, chỉ mát về đêm. Khí hậu có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt. Mùa lạnh tính từ lúc tháng 10 kéo dài tới hết tháng 5 năm sau. Nửa đầu mùa lạnh là thời kỳ khô hanh khô, nhiệt độ ban ngày ấm áp, nhưng nhiệt độ đêm hôm thường thấp, chênh lệch giữa ngày và đêm từ 5 – 100C; cuối mùa lạnh thường có mưa phùn, trời nhiều mây, độ ẩm cao; Nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm khoảng 4-50C. Tháng 12 và tháng 1 hàng năm thường có gió mùa đông bắc nên đây thường là những tháng lạnh nhất, có băng giá, có lúc nhiệt độ xuống dưới 00C. Băng giá thường xảy ra từng đợt từ 1 – 2 ngày, có lúc tới 4 – 5 ngày. Mùa nóng tính từ lúc tháng 4 tới tháng 9. Nhiệt độ cao nhất vào tháng 5 và tháng 6, trung bình lên tới 360 C. Sau tháng 7, nhiệt độ giảm dần, trung bình khoảng 20 – 250C. Từ tháng 4 tới tháng 5, do có sự chuyển tiếp giữa hai mùa nóng và lạnh nên hàng năm dễ xảy ra mưa đá.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500mm-1900mm. Có năm mưa lớn, thường xuyên gây ngập úng cục bộ; Ở vùng đầu nguồn, ruộng, nương dễ bị cuốn trôi gây hư hại cây cối hoa màu, tác động tới đời sống sinh hoạt của người dân.
5 – Hệ thống sông ngòi
Về hệ thống sông ngòi, Trùng Khánh có hai sông chính là sông Bắc Vọng và sông Quài Sơn.
Sông Bắc Vọng bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua tỉnh Cao Bằng với chiều dài 77 km, chảy về phía Đông huyện Trà Lĩnh, vào Trùng Khánh qua các xã Trung Phúc, Thông Huề, Đoài Côn, Thân Giáp, Trung Phúc. chảy tới huyện Hạ Lang, các huyện Quảng Uyên, Phục Hòa, hợp lưu với sông Bằng Giang rồi đổ sang Trung Quốc. Do chảy qua các vùng đá vôi của Cao nguyên Đông nên quá trình nước chảy qua đá bào mòn và bị xâm thực dữ dội qua các mùa mưa lũ tạo nên những cánh đồng nhỏ hẹp ven sông suối, mặt ruộng. Ruộng hoặc nương rẫy nhô ra những mỏm đá nổi gây khó khăn cho việc làm đất và trồng cây lương thực. Độ dốc trung bình của sông Bắc Vọng khoảng 0,009 .0lưu lượng nước trung bình 25m3/thứ hai; có nhiều sông nguy hiểm, nhiều thác ghềnh.
Sông Quài Sơn có hai phụ lưu chính đều bắt nguồn từ Trung Quốc, chiều dài khoảng 76 km. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khê; Nhánh thứ hai, còn gọi là sông Tà Pê, chảy theo hướng Đông Nam, qua các xã Phong Nẫm, Ngọc Khê, hợp lưu với nhánh chính tại Khả Mộng, xã Ngọc Khê, chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, Đàm Thủy. qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung Quốc. Lòng sông tuy ko rộng nhưng sâu, nước chảy xiết, độ dốc trung bình 0,01 .0, có nhiều thác ghềnh như thác Khoang (Thoong Khoang), xã Ngọc Khê, cao 10 m; Thác Gót (Thoong Gót) xã Chí Viễn, cao trên 20 m. Đặc trưng, thác Bản Giốc, xã Đàm Thủy, có độ cao trên 50 m; Thác có 2 nhánh: nhánh bên phải nước chảy thẳng xuống vực sâu, nhánh bên trái nước đổ dần xuống ba bậc, tiếp nối nhau tạo thành dòng chảy. Do độ dốc lớn nên dòng chảy đổ xuống vực sâu, tung bọt trắng xóa. và bay lưng chừng núi, hơi nước bốc lên tạo nên những làn sương huyền ảo, như dải lụa trắng vắt ngang sườn núi, vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Do điều kiện địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam nên hồ hết các sông suối đều bắt nguồn từ Tây Bắc và chảy theo hướng Đông Nam qua các dãy núi đá vôi, dọc theo các sông (Bắc Vọng, Quai Sơn,…) có nhiều thác ghềnh. Tận dụng sức nước, người dân đã làm những chiếc “gậy” dẫn nước từ sông, suối lên độ cao 5-10 m để cung ứng nước tưới cho hàng trăm ha lúa và hoa màu, hoặc giã gạo… .
Các sông lớn như Quây Sơn, Bắc Vọng và nhiều suối, ao, hồ là nguồn lợi thủy sản phong phú. Diện tích mặt nước của huyện là 56,9 ha, chiếm 1,87% diện tích tự nhiên. Nơi đây có nhiều loại cá quý, có trị giá kinh tế cao như cá trích (có con nặng tới chục ký), cá gáy, cá vược, cá chuối, ba ba… Đặc trưng là cá trầm hương (ở vùng thung lũng). Đình; nay thuộc xã Đình Phong) nổi tiếng thơm ngon nhất vùng. Con cá nặng khoảng 1-2 kg, vảy trắng, gần mang có một vòng vảy xanh. Đây là loại cá đặc sản của huyện Trùng Khánh.
Hàng năm, nhân dân vùng ven sông Bắc Vọng, Quài Sơn và các con suối lớn nhỏ đánh bắt được hàng chục tấn tôm, cá các loại, phục vụ sinh hoạt của người dân địa phương.
6 – Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên tài nguyên
Tổng diện tích đất nông nghiệp của Trùng Khánh là 38.798,40 ha, có nhiều cánh đồng lớn nhỏ phì nhiêu. Dọc theo sông Quài Sơn là những cánh đồng trải dài, phì nhiêu như: cánh đồng xã Ngọc Khê dài gần 10 km, rộng 2 km, đặc thù là cánh đồng xã Đình Phong do phù sa sông Quy Sơn bồi đắp, rất phì nhiêu. Người dân quanh vùng thường lưu truyền câu “Quỳnh Lâu Lũng Đình trù phú” để chỉ sự giàu có của cư dân vùng đất này. Ngoài ra còn có cánh đồng Chí Viễn, Đạm Thủy. Dọc theo sông Bắc Vọng là cánh đồng của các xã Trung Phúc, Thông Huề, Thân Giáp… Ngoài ra còn có những cánh đồng lúa sống nhờ vào nguồn nước tưới chủ yếu là nước suối và nước tự nhiên như: Lăng Hiếu, Lãng Yên, Phong Châu, Bồng Sơn, Cao Thắng, Đức Hồng, Đoài Côn. Những ruộng lúa này là nguồn lương thực chính của người dân huyện Trùng Khánh.
Tài nguyên rừng của Trùng Khánh rất phong phú. Rừng và đất lâm nghiệp có 29.325,04 ha chiếm 62,56% diện tích đất toàn huyện. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý như: bạch quả, lát quý, thông…, các loại thú như hổ, báo, gấu, sơn dương, lợn rừng, nai, khỉ, vượn, cầy… các loại. của chim họa mi, gà rừng, quạ… Lâm thổ sản: nấm hương, nấm mèo, quách. Cây ăn quả có mận, lê, cam, quýt, đào. Trong đó, hạt dẻ là đặc sản ở Trùng Khánh, rất thơm ngon, đã trở thành thành phầm hàng hóa có trị giá trên thị trường trong nước và quốc tế.
Dưới lòng đất có nhiều loại tài nguyên, trung bình 14,5 km2 có 1 điểm tài nguyên, trong đó có nhiều tài nguyên quý như mangan, bô xít, thạch anh… Đá ngọc bích có nhiều ở Bản Piền, xã Phong Châu; đá bền, đẹp (đã từng được khai thác làm vật liệu góp phần xây dựng Lăng Bác). Mangan có nhiều ở các xã Lăng Hiếu, Phong Châu, Đình Phong, Thân Giáp. Những năm 1940, Nhật khai thác các mỏ than lộ thiên ở Hiếu Lễ, Phong Châu, Ngọc Khê…, mỏ muối tiêu ở Bản Quân (xã Phong Châu).
Về giao thông, Trùng Khánh là huyện biên giới, có tỉnh lộ đi cửa khẩu Pò Peo (nay thuộc xã Ngọc Côn) dài trên 20km và đường Trùng Khánh – Bằng Cả (Hạ Lang) dài 38km; Trùng Khánh – Trà Lĩnh dài 26km. Trước năm 1930, hệ thống đường sá ở Trùng Khánh rất lỗi thời, đi lại khó khăn, chủ yếu đi bộ và cưỡi ngựa.
Quê hương Trùng Khánh được tự nhiên ưu đãi: có núi, có sông, có đồng ruộng, nương rẫy, tài nguyên, hệ động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận tiện to lớn để Trùng Khánh tăng trưởng nhanh và vững bền.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Trùng Khánh” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh
Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh -
1- Vị trí
Trùng Khánh là huyện biên giới nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Cao Bằng; từ thị xã Cao Bằng theo tỉnh lộ 206 tới trung tâm huyện lỵ dài 62 km, diện tích 469,15 km2dân số gần 50.000 người.
Huyện có tọa độ địa lý: Từ 22042'09" tới 22"056'52” vĩ độ Bắc (từ Pác Muội – Đoài Côn tới Phja Mường – Ngọc Khê); từ 106023'49" tới 106"043'56" luồng Đông (đoạn từ Bản Cán - Trung Phúc tới Bản Giốc - thác Đạm Thủy).
Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Hạ Lang, phía Tây giáp huyện Trà Lĩnh, phía Nam giáp huyện Quảng Uyên và Phục Hòa; Phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Tịnh Tây và huyện Đại Tân (Quảng Tây, Trung Quốc).
2 – Quản trị
Huyện có 20 đơn vị hành chính, gồm 19 xã và 1 thị trấn, gồm các xã: Đình Minh, Lăng Hiếu, Lăng Yên, Phong Nẫm, Phong Châu, Ngọc Chung., ngọc khê,Ngọc Côn (năm 2008 mới tách từ xã Ngọc Khê)Đình Phong, Đạm Thủy, Đức Hồng, Canh Tiến, Cao Thắng, Chí Viễn, Thân Giáp, Đoài Côn, Thông Huề, Trung Phúc, Khâm Thành và Thị trấn Trùng Khánh.
Huyện Trùng Khánh có 8 xã biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, chiều dài đường biên giới là 63,15 km, gồm: Lãng Yên, Ngọc Chung, Phong Nẫm, Ngọc Khê, Ngọc Côn, Đình Phong, Chí Viễn, Đạm Thủy. Huyện có cửa khẩu Pò Peo (thuộc xã Ngọc Côn) và nhiều đường mòn dân sinh, nhân dân hai bên biên giới thường xuyên qua lại giao lưu kinh tế, văn hóa,...
3 – Địa hình
Về địa hình, huyện Trùng Khánh có độ cao trung bình từ 600-800 m so với mực nước biển; có cấu trúc địa hình nhiều chủng loại và phức tạp, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen kẽ giữa những dãy núi đá là những thung lũng phẳng phiu, do tự nhiên tạo nên cùng nhiều trí tuệ, sức khai thác của nhân dân các dân tộc từ bao đời nay đã tạo nên những cánh đồng, thửa ruộng trù phú. như các khu vực Ngọc Khê, Đình Phong, Chí Viễn, Trung Phúc, Đạm Thủy, Phong Nẫm, Lăng Hiếu, Phong Châu, Đức Hồng, Cao Thắng,… Đặc điểm địa hình của Trùng Khánh là xen giữa thung lũng phẳng phiu với núi đá , núi nhấp nhô, nhấp nhô nhiều hình thù, tiêu biểu là vùng Ngọc Khê (thuộc xã Ngọc Khê) ven sông Quy Sơn, được dân gian truyền tụng là “vùng núi Hà Lục hữu tình”.
Huyện Trùng Khánh còn có những ngọn núi đá cao, chạy dọc biên giới Việt Nam và Trung Quốc, ở phía Bắc và Đông Bắc, giống như bức bình phong, bức tường thành che chắn. Trong số những dãy núi đó, cao nhất là núi Giàng Mu, thuộc xã Ngọc Khê, có độ cao trên 873 m. Phía Nam và Tây Nam Bộ là địa hình chuyển tiếp của cao nguyên phía Đông (thuộc đới Hạ Lang trong kiến tạo địa chất ở vùng đất giàu tài nguyên quý như mangan, bô xít, thạch anh, ngọc bích,...), tăng dần. từ Nam ra Bắc.
4 – Khí hậu
Do điều kiện địa lý và địa hình, huyện Trùng Khánh chịu tác động nặng nề của khí hậu cận nhiệt đới; thường xuyên chịu tác động trực tiếp của gió mùa, chủ yếu là gió mùa đông bắc. Mùa đông, độ ẩm thấp, khô và lạnh; Mùa hè nóng, chỉ mát về đêm. Khí hậu có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt. Mùa lạnh tính từ lúc tháng 10 kéo dài tới hết tháng 5 năm sau. Nửa đầu mùa lạnh là thời kỳ khô hanh khô, nhiệt độ ban ngày ấm áp, nhưng nhiệt độ đêm hôm thường thấp, chênh lệch giữa ngày và đêm từ 5 - 100C; cuối mùa lạnh thường có mưa phùn, trời nhiều mây, độ ẩm cao; Nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm khoảng 4-50C. Tháng 12 và tháng 1 hàng năm thường có gió mùa đông bắc nên đây thường là những tháng lạnh nhất, có băng giá, có lúc nhiệt độ xuống dưới 00C. Băng giá thường xảy ra từng đợt từ 1 - 2 ngày, có lúc tới 4 - 5 ngày. Mùa nóng tính từ lúc tháng 4 tới tháng 9. Nhiệt độ cao nhất vào tháng 5 và tháng 6, trung bình lên tới 360 C. Sau tháng 7, nhiệt độ giảm dần, trung bình khoảng 20 - 250C. Từ tháng 4 tới tháng 5, do có sự chuyển tiếp giữa hai mùa nóng và lạnh nên hàng năm dễ xảy ra mưa đá.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500mm-1900mm. Có năm mưa lớn, thường xuyên gây ngập úng cục bộ; Ở vùng đầu nguồn, ruộng, nương dễ bị cuốn trôi gây hư hại cây cối hoa màu, tác động tới đời sống sinh hoạt của người dân.
5 – Hệ thống sông ngòi
Về hệ thống sông ngòi, Trùng Khánh có hai sông chính là sông Bắc Vọng và sông Quài Sơn.
Sông Bắc Vọng bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua tỉnh Cao Bằng với chiều dài 77 km, chảy về phía Đông huyện Trà Lĩnh, vào Trùng Khánh qua các xã Trung Phúc, Thông Huề, Đoài Côn, Thân Giáp, Trung Phúc. chảy tới huyện Hạ Lang, các huyện Quảng Uyên, Phục Hòa, hợp lưu với sông Bằng Giang rồi đổ sang Trung Quốc. Do chảy qua các vùng đá vôi của Cao nguyên Đông nên quá trình nước chảy qua đá bào mòn và bị xâm thực dữ dội qua các mùa mưa lũ tạo nên những cánh đồng nhỏ hẹp ven sông suối, mặt ruộng. Ruộng hoặc nương rẫy nhô ra những mỏm đá nổi gây khó khăn cho việc làm đất và trồng cây lương thực. Độ dốc trung bình của sông Bắc Vọng khoảng 0,009 .0lưu lượng nước trung bình 25m3/thứ hai; có nhiều sông nguy hiểm, nhiều thác ghềnh.
Sông Quài Sơn có hai phụ lưu chính đều bắt nguồn từ Trung Quốc, chiều dài khoảng 76 km. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khê; Nhánh thứ hai, còn gọi là sông Tà Pê, chảy theo hướng Đông Nam, qua các xã Phong Nẫm, Ngọc Khê, hợp lưu với nhánh chính tại Khả Mộng, xã Ngọc Khê, chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, Đàm Thủy. qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung Quốc. Lòng sông tuy ko rộng nhưng sâu, nước chảy xiết, độ dốc trung bình 0,01 .0, có nhiều thác ghềnh như thác Khoang (Thoong Khoang), xã Ngọc Khê, cao 10 m; Thác Gót (Thoong Gót) xã Chí Viễn, cao trên 20 m. Đặc trưng, thác Bản Giốc, xã Đàm Thủy, có độ cao trên 50 m; Thác có 2 nhánh: nhánh bên phải nước chảy thẳng xuống vực sâu, nhánh bên trái nước đổ dần xuống ba bậc, tiếp nối nhau tạo thành dòng chảy. Do độ dốc lớn nên dòng chảy đổ xuống vực sâu, tung bọt trắng xóa. và bay lưng chừng núi, hơi nước bốc lên tạo nên những làn sương huyền ảo, như dải lụa trắng vắt ngang sườn núi, vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Do điều kiện địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam nên hồ hết các sông suối đều bắt nguồn từ Tây Bắc và chảy theo hướng Đông Nam qua các dãy núi đá vôi, dọc theo các sông (Bắc Vọng, Quai Sơn,…) có nhiều thác ghềnh. Tận dụng sức nước, người dân đã làm những chiếc “gậy” dẫn nước từ sông, suối lên độ cao 5-10 m để cung ứng nước tưới cho hàng trăm ha lúa và hoa màu, hoặc giã gạo… .
Các sông lớn như Quây Sơn, Bắc Vọng và nhiều suối, ao, hồ là nguồn lợi thủy sản phong phú. Diện tích mặt nước của huyện là 56,9 ha, chiếm 1,87% diện tích tự nhiên. Nơi đây có nhiều loại cá quý, có trị giá kinh tế cao như cá trích (có con nặng tới chục ký), cá gáy, cá vược, cá chuối, ba ba… Đặc trưng là cá trầm hương (ở vùng thung lũng). Đình; nay thuộc xã Đình Phong) nổi tiếng thơm ngon nhất vùng. Con cá nặng khoảng 1-2 kg, vảy trắng, gần mang có một vòng vảy xanh. Đây là loại cá đặc sản của huyện Trùng Khánh.
Hàng năm, nhân dân vùng ven sông Bắc Vọng, Quài Sơn và các con suối lớn nhỏ đánh bắt được hàng chục tấn tôm, cá các loại, phục vụ sinh hoạt của người dân địa phương.
6 – Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên tài nguyên
Tổng diện tích đất nông nghiệp của Trùng Khánh là 38.798,40 ha, có nhiều cánh đồng lớn nhỏ phì nhiêu. Dọc theo sông Quài Sơn là những cánh đồng trải dài, phì nhiêu như: cánh đồng xã Ngọc Khê dài gần 10 km, rộng 2 km, đặc thù là cánh đồng xã Đình Phong do phù sa sông Quy Sơn bồi đắp, rất phì nhiêu. Người dân quanh vùng thường lưu truyền câu “Quỳnh Lâu Lũng Đình trù phú” để chỉ sự giàu có của cư dân vùng đất này. Ngoài ra còn có cánh đồng Chí Viễn, Đạm Thủy. Dọc theo sông Bắc Vọng là cánh đồng của các xã Trung Phúc, Thông Huề, Thân Giáp... Ngoài ra còn có những cánh đồng lúa sống nhờ vào nguồn nước tưới chủ yếu là nước suối và nước tự nhiên như: Lăng Hiếu, Lãng Yên, Phong Châu, Bồng Sơn, Cao Thắng, Đức Hồng, Đoài Côn. Những ruộng lúa này là nguồn lương thực chính của người dân huyện Trùng Khánh.
Tài nguyên rừng của Trùng Khánh rất phong phú. Rừng và đất lâm nghiệp có 29.325,04 ha chiếm 62,56% diện tích đất toàn huyện. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý như: bạch quả, lát quý, thông…, các loại thú như hổ, báo, gấu, sơn dương, lợn rừng, nai, khỉ, vượn, cầy… các loại. của chim họa mi, gà rừng, quạ... Lâm thổ sản: nấm hương, nấm mèo, quách. Cây ăn quả có mận, lê, cam, quýt, đào. Trong đó, hạt dẻ là đặc sản ở Trùng Khánh, rất thơm ngon, đã trở thành thành phầm hàng hóa có trị giá trên thị trường trong nước và quốc tế.
Dưới lòng đất có nhiều loại tài nguyên, trung bình 14,5 km2 có 1 điểm tài nguyên, trong đó có nhiều tài nguyên quý như mangan, bô xít, thạch anh... Đá ngọc bích có nhiều ở Bản Piền, xã Phong Châu; đá bền, đẹp (đã từng được khai thác làm vật liệu góp phần xây dựng Lăng Bác). Mangan có nhiều ở các xã Lăng Hiếu, Phong Châu, Đình Phong, Thân Giáp. Những năm 1940, Nhật khai thác các mỏ than lộ thiên ở Hiếu Lễ, Phong Châu, Ngọc Khê..., mỏ muối tiêu ở Bản Quân (xã Phong Châu).
Về giao thông, Trùng Khánh là huyện biên giới, có tỉnh lộ đi cửa khẩu Pò Peo (nay thuộc xã Ngọc Côn) dài trên 20km và đường Trùng Khánh - Bằng Cả (Hạ Lang) dài 38km; Trùng Khánh - Trà Lĩnh dài 26km. Trước năm 1930, hệ thống đường sá ở Trùng Khánh rất lỗi thời, đi lại khó khăn, chủ yếu đi bộ và cưỡi ngựa.
Quê hương Trùng Khánh được tự nhiên ưu đãi: có núi, có sông, có đồng ruộng, nương rẫy, tài nguyên, hệ động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận tiện to lớn để Trùng Khánh tăng trưởng nhanh và vững bền.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/05/Untitled-1-min-1-47.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Vài nét về huyện Trùng Khánh – tỉnh Cao Bằng – vansudia.net” title=”Vài nét về huyện Trùng Khánh – tỉnh Cao Bằng – vansudia.net”>
1- Vị trí
Trùng Khánh là huyện biên giới nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Cao Bằng; từ thị xã Cao Bằng theo tỉnh lộ 206 đến trung tâm huyện lỵ dài 62 km, diện tích 469,15 km2dân số gần 50.000 người.
Huyện có tọa độ địa lý: Từ 22042‘09″ đến 22″056’52” vĩ độ Bắc (từ Pác Muội – Đoài Côn đến Phja Mường – Ngọc Khê); từ 106023’49” đến 106″043’56” luồng Đông (đoạn từ Bản Cán – Trung Phúc đến Bản Giốc – thác Đạm Thủy).
Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Hạ Lang, phía Tây giáp huyện Trà Lĩnh, phía Nam giáp huyện Quảng Uyên và Phục Hòa; Phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Tịnh Tây và huyện Đại Tân (Quảng Tây, Trung Quốc).
2 – Quản trị
Huyện có 20 đơn vị hành chính, gồm 19 xã và 1 thị trấn, gồm các xã: Đình Minh, Lăng Hiếu, Lăng Yên, Phong Nẫm, Phong Châu, Ngọc Chung., ngọc khê,Ngọc Côn (năm 2008 mới tách từ xã Ngọc Khê)Đình Phong, Đạm Thủy, Đức Hồng, Canh Tiến, Cao Thắng, Chí Viễn, Thân Giáp, Đoài Côn, Thông Huề, Trung Phúc, Khâm Thành và Thị trấn Trùng Khánh.
Huyện Trùng Khánh có 8 xã biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, chiều dài đường biên giới là 63,15 km, gồm: Lãng Yên, Ngọc Chung, Phong Nẫm, Ngọc Khê, Ngọc Côn, Đình Phong, Chí Viễn, Đạm Thủy. Huyện có cửa khẩu Pò Peo (thuộc xã Ngọc Côn) và nhiều đường mòn dân sinh, nhân dân hai bên biên giới thường xuyên qua lại giao lưu kinh tế, văn hóa,…
3 – Địa hình
Về địa hình, huyện Trùng Khánh có độ cao trung bình từ 600-800 m so với mực nước biển; có cấu trúc địa hình đa dạng và phức tạp, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen kẽ giữa những dãy núi đá là những thung lũng bằng phẳng, do thiên nhiên tạo nên cùng nhiều trí tuệ, sức khai thác của nhân dân các dân tộc từ bao đời nay đã tạo nên những cánh đồng, thửa ruộng trù phú. như các khu vực Ngọc Khê, Đình Phong, Chí Viễn, Trung Phúc, Đạm Thủy, Phong Nẫm, Lăng Hiếu, Phong Châu, Đức Hồng, Cao Thắng,… Đặc điểm địa hình của Trùng Khánh là xen giữa thung lũng bằng phẳng với núi đá , núi nhấp nhô, nhấp nhô nhiều hình thù, tiêu biểu là vùng Ngọc Khê (thuộc xã Ngọc Khê) ven sông Quy Sơn, được dân gian truyền tụng là “vùng núi Hà Lục hữu tình”.
Huyện Trùng Khánh còn có những ngọn núi đá cao, chạy dọc biên giới Việt Nam và Trung Quốc, ở phía Bắc và Đông Bắc, giống như bức bình phong, bức tường thành che chắn. Trong số những dãy núi đó, cao nhất là núi Giàng Mu, thuộc xã Ngọc Khê, có độ cao trên 873 m. Phía Nam và Tây Nam Bộ là địa hình chuyển tiếp của cao nguyên phía Đông (thuộc đới Hạ Lang trong kiến tạo địa chất ở vùng đất giàu khoáng sản quý như mangan, bô xít, thạch anh, ngọc bích,…), tăng dần. từ Nam ra Bắc.
4 – Khí hậu
Do điều kiện địa lý và địa hình, huyện Trùng Khánh chịu ảnh hưởng nặng nề của khí hậu cận nhiệt đới; thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa, chủ yếu là gió mùa đông bắc. Mùa đông, độ ẩm thấp, khô và lạnh; Mùa hè nóng, chỉ mát về đêm. Khí hậu có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt. Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 10 kéo dài đến hết tháng 5 năm sau. Nửa đầu mùa lạnh là thời kỳ hanh khô, nhiệt độ ban ngày ấm áp, nhưng nhiệt độ ban đêm thường thấp, chênh lệch giữa ngày và đêm từ 5 – 100C; cuối mùa lạnh thường có mưa phùn, trời nhiều mây, độ ẩm cao; Nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm khoảng 4-50C. Tháng 12 và tháng 1 hàng năm thường có gió mùa đông bắc nên đây thường là những tháng lạnh nhất, có băng giá, có khi nhiệt độ xuống dưới 00C. Băng giá thường xảy ra từng đợt từ 1 – 2 ngày, có khi đến 4 – 5 ngày. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9. Nhiệt độ cao nhất vào tháng 5 và tháng 6, trung bình lên tới 360 C. Sau tháng 7, nhiệt độ giảm dần, trung bình khoảng 20 – 250C. Từ tháng 4 đến tháng 5, do có sự chuyển tiếp giữa hai mùa nóng và lạnh nên hàng năm dễ xảy ra mưa đá.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500mm-1900mm. Có năm mưa lớn, thường xuyên gây ngập úng cục bộ; Ở vùng đầu nguồn, ruộng, nương dễ bị cuốn trôi gây hư hại cây cối hoa màu, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân.
5 – Hệ thống sông ngòi
Về hệ thống sông ngòi, Trùng Khánh có hai sông chính là sông Bắc Vọng và sông Quài Sơn.
Sông Bắc Vọng bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua tỉnh Cao Bằng với chiều dài 77 km, chảy về phía Đông huyện Trà Lĩnh, vào Trùng Khánh qua các xã Trung Phúc, Thông Huề, Đoài Côn, Thân Giáp, Trung Phúc. chảy đến huyện Hạ Lang, các huyện Quảng Uyên, Phục Hòa, hợp lưu với sông Bằng Giang rồi đổ sang Trung Quốc. Do chảy qua các vùng đá vôi của Cao nguyên Đông nên quá trình nước chảy qua đá bào mòn và bị xâm thực dữ dội qua các mùa mưa lũ tạo nên những cánh đồng nhỏ hẹp ven sông suối, mặt ruộng. Ruộng hoặc nương rẫy nhô ra những mỏm đá nổi gây khó khăn cho việc làm đất và trồng cây lương thực. Độ dốc trung bình của sông Bắc Vọng khoảng 0,009 .0lưu lượng nước trung bình 25m3/thứ hai; có nhiều sông nguy hiểm, nhiều thác ghềnh.
Sông Quài Sơn có hai phụ lưu chính đều bắt nguồn từ Trung Quốc, chiều dài khoảng 76 km. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khê; Nhánh thứ hai, còn gọi là sông Tà Pê, chảy theo hướng Đông Nam, qua các xã Phong Nẫm, Ngọc Khê, hợp lưu với nhánh chính tại Khả Mộng, xã Ngọc Khê, chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, Đàm Thủy. qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung Quốc. Lòng sông tuy không rộng nhưng sâu, nước chảy xiết, độ dốc trung bình 0,01 .0, có nhiều thác ghềnh như thác Khoang (Thoong Khoang), xã Ngọc Khê, cao 10 m; Thác Gót (Thoong Gót) xã Chí Viễn, cao trên 20 m. Đặc biệt, thác Bản Giốc, xã Đàm Thủy, có độ cao trên 50 m; Thác có 2 nhánh: nhánh bên phải nước chảy thẳng xuống vực sâu, nhánh bên trái nước đổ dần xuống ba bậc, nối tiếp nhau tạo thành dòng chảy. Do độ dốc lớn nên dòng chảy đổ xuống vực sâu, tung bọt trắng xóa. và bay lưng chừng núi, hơi nước bốc lên tạo nên những làn sương huyền ảo, như dải lụa trắng vắt ngang sườn núi, vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Do điều kiện địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam nên hầu hết các sông suối đều bắt nguồn từ Tây Bắc và chảy theo hướng Đông Nam qua các dãy núi đá vôi, dọc theo các sông (Bắc Vọng, Quai Sơn,…) có nhiều thác ghềnh. Tận dụng sức nước, người dân đã làm những chiếc “gậy” dẫn nước từ sông, suối lên độ cao 5-10 m để cung cấp nước tưới cho hàng trăm ha lúa và hoa màu, hoặc giã gạo… .
Các sông lớn như Quây Sơn, Bắc Vọng và nhiều suối, ao, hồ là nguồn lợi thủy sản phong phú. Diện tích mặt nước của huyện là 56,9 ha, chiếm 1,87% diện tích tự nhiên. Nơi đây có nhiều loại cá quý, có giá trị kinh tế cao như cá trích (có con nặng đến chục ký), cá chép, cá vược, cá chuối, ba ba… Đặc biệt là cá trầm hương (ở vùng thung lũng). Đình; nay thuộc xã Đình Phong) nổi tiếng thơm ngon nhất vùng. Con cá nặng khoảng 1-2 kg, vảy trắng, gần mang có một vòng vảy xanh. Đây là loại cá đặc sản của huyện Trùng Khánh.
Hàng năm, nhân dân vùng ven sông Bắc Vọng, Quài Sơn và các con suối lớn nhỏ đánh bắt được hàng chục tấn tôm, cá các loại, phục vụ sinh hoạt của người dân địa phương.
6 – Đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản
Tổng diện tích đất nông nghiệp của Trùng Khánh là 38.798,40 ha, có nhiều cánh đồng lớn nhỏ màu mỡ. Dọc theo sông Quài Sơn là những cánh đồng trải dài, màu mỡ như: cánh đồng xã Ngọc Khê dài gần 10 km, rộng 2 km, đặc biệt là cánh đồng xã Đình Phong do phù sa sông Quy Sơn bồi đắp, rất phì nhiêu. Người dân quanh vùng thường lưu truyền câu “Quỳnh Lâu Lũng Đình trù phú” để chỉ sự giàu có của cư dân vùng đất này. Ngoài ra còn có cánh đồng Chí Viễn, Đạm Thủy. Dọc theo sông Bắc Vọng là cánh đồng của các xã Trung Phúc, Thông Huề, Thân Giáp… Ngoài ra còn có những cánh đồng lúa sống nhờ vào nguồn nước tưới chủ yếu là nước suối và nước tự nhiên như: Lăng Hiếu, Lãng Yên, Phong Châu, Bồng Sơn, Cao Thắng, Đức Hồng, Đoài Côn. Những ruộng lúa này là nguồn lương thực chính của người dân huyện Trùng Khánh.
Tài nguyên rừng của Trùng Khánh rất phong phú. Rừng và đất lâm nghiệp có 29.325,04 ha chiếm 62,56% diện tích đất toàn huyện. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý như: bạch quả, lát quý, thông…, các loại thú như hổ, báo, gấu, sơn dương, lợn rừng, nai, khỉ, vượn, cầy… các loại. của chim họa mi, gà rừng, quạ… Lâm sản: nấm hương, mộc nhĩ, quách. Cây ăn quả có mận, lê, cam, quýt, đào. Trong đó, hạt dẻ là đặc sản ở Trùng Khánh, rất thơm ngon, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế.
Dưới lòng đất có nhiều loại khoáng sản, trung bình 14,5 km2 có 1 điểm khoáng sản, trong đó có nhiều khoáng sản quý như mangan, bô xít, thạch anh… Đá ngọc bích có nhiều ở Bản Piền, xã Phong Châu; đá bền, đẹp (đã từng được khai thác làm vật liệu góp phần xây dựng Lăng Bác). Mangan có nhiều ở các xã Lăng Hiếu, Phong Châu, Đình Phong, Thân Giáp. Những năm 1940, Nhật khai thác các mỏ than lộ thiên ở Hiếu Lễ, Phong Châu, Ngọc Khê…, mỏ muối tiêu ở Bản Quân (xã Phong Châu).
Về giao thông, Trùng Khánh là huyện biên giới, có tỉnh lộ đi cửa khẩu Pò Peo (nay thuộc xã Ngọc Côn) dài trên 20km và đường Trùng Khánh – Bằng Cả (Hạ Lang) dài 38km; Trùng Khánh – Trà Lĩnh dài 26km. Trước năm 1930, hệ thống đường sá ở Trùng Khánh rất lạc hậu, đi lại khó khăn, chủ yếu đi bộ và cưỡi ngựa.
Quê hương Trùng Khánh được thiên nhiên ưu đãi: có núi, có sông, có đồng ruộng, nương rẫy, khoáng sản, hệ động thực vật phong phú. Đó là những tiềm năng to lớn, nếu được đầu tư, khai thác hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi to lớn để Trùng Khánh phát triển nhanh và bền vững.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Trùng #Khánh
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Trùng Khánh bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Trùng #Khánh
Trả lời