Giới thiệu nói chung về huyện Ngọc Lặc
Ngọc Lạc là huyện cửa ngõ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực phía Tây tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Huyện có đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 15A đi qua, giáp Cảng hàng ko Thọ Xuân (khoảng 30 km), cách cảng nước sâu Nghi Sơn gần 100 km …
Ngọc Lặc nằm cạnh Khu công nghiệp nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn Sao Vàng (đầu tàu kinh tế thứ 2 của tỉnh Thanh Hóa).
Ngọc Lặc có thể giao lưu tăng trưởng kinh tế với Hà Nội, Thị thành Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn của cả nước và cả nước bạn Lào. Nằm trong chiến lược tăng trưởng kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hóa, Ngọc Lặc đã được Trung ương và tỉnh đầu tư trở nên đô thị vùng miền núi phía Tây của tỉnh.
Là một huyện miền núi phía Tây của Thanh Hóa, huyện Ngọc Lặc tiếp giáp với các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước (phía Bắc), Thọ Xuân, Thường Xuân (phía Nam), Lang Chánh (phía Tây), Thọ Xuan, and Tho Xuan. Yên Định (phía Đông);
Huyện Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 49.092,4 ha với khoảng 140.000 nhân khẩu, trong đó dân tộc Mường chiếm 70,5%, dân tộc Kinh 27,3%, dân tộc khác 2,2%.
Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính cấp xã (21 xã, 01 thị trấn). Ngọc Lặc chiếm khoảng 4,4% diện tích toàn tỉnh và 3,9 dân số.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Địa hình phức tạp, phía Tây có nhiều đồi (chiếm 40,1% diện tích), đỉnh Lam Sơn (472 m), phía Đông đồng bằng xen kẽ nhiều đồi. Sông Cầu Chày, sông Âm, sông Hép chảy qua.
Điều kiện xã hội:
Giao thông: Quốc lộ 15A (Từ đường Lê Duẩn, TT Ngọc Lặc tới giáp huyện Lang Chánh), tỉnh lộ 519 (Chỉ còn một đoạn gần 2km qua đường 1), đường Hồ Chí Minh (Trường tỉnh lộ 519 và đoạn của Quốc lộ 15A đoạn từ TT Ngọc Lặc tới Lam Kinh) chạy qua.
Hành chính: Gồm 1 thị trấn (Ngọc Lặc – huyện lỵ), 21 xã (Mỹ Tân, Thủy Sơn, Thạch Lập, Vân Am, Cao Ngọc, Ngọc Khê, Quang Trung, Đồng Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Lộc Thịnh), Cao Thịnh, Ngọc Trung, Phùng Giáo, Phùng Minh, Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Lam Sơn).
Dân số: Tổng dân số 146.272 người (2010), bình quân 295,2 người / km2, gồm các dân tộc: Mường, Dao, Thái, Kinh.
Lịch sử khởi đầu
Theo các sách địa chí, địa danh thời Lê, Nguyễn cũng như di chỉ khảo cổ học của các nhà khảo cổ người Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX, ở Ngọc Lặc đã phát xuất hiện các di chỉ của cư dân Ngọc Lặc. sống ở thời đại đồ đá mới (thuộc văn hóa Hòa Bình) trong các hang động như Động Mộc Trạch, Lộc Thịnh I, Lộc Thịnh II.
Vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn, trên đất Ngọc Lặc đã phát hiện những nhóm đồ đồng Đông Sơn gồm dụng cụ, vũ khí, trống đồng ở các xã Ngọc Khê qua các di chỉ khảo cổ ở núi Mả Me, núi Nu (Nguyên An). .
Đầu công nguyên Ngọc Lặc thuộc đất Đô Lũng.
Thời thuộc Hán, Ngọc Lặc thuộc huyện Vô Biên.
Dưới thời Tùy – Đường (581 – 905), đất Ngọc Lặc thuộc huyện Di Phong, rồi huyện Trường Lâm cho tới thời Đinh – Đầu Lê – Lý.
Thời Trần – Hồ thuộc huyện Nga Lạc (tương đương huyện Ngọc Lặc ngày nay và một phần huyện Thọ Xuân ở tả ngạn sông Chu).
Thời thuộc Minh, Nga Lạc và Lôi Giang được gọi là huyện Nga Lạc (tức huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thủy ngày nay).
Thời Hậu Lê, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên.
Thời Nguyễn là đất huyện Thủy Nguyên. Năm Thành Thái thứ 12 (1900), cắt tỉnh Ngọc Lặc và các xã Mường thuộc tổng Yên Trường, Quảng Thi (huyện Thủy Nguyên, huyện Thiệu Hóa) lập châu Ngọc, rồi châu Ngọc Lặc.
Sau Cách mệnh Tháng Tám (1945), bỏ “châu”, đổi thành huyện Ngọc Lặc.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, theo Quyết định 177-CP của Hội đồng Chính phủ, hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh được thống nhất gọi là huyện Lương Ngọc.
Ngày 30/8/1982 theo quyết định số 149-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng chia huyện Lương Ngọc thành hai huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc. Huyện Ngọc Lặc được giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay.
Tương tự, vùng đất Ngọc Lặc đã trải qua nhiều thời kỳ chia tách, sáp nhập, đổi tên không giống nhau, nhưng vùng đất Ngọc Lặc đã có dân cư từ khá sớm, có vị trí chiến lược quân sự trọng yếu, là nơi dân cư sinh sống. căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn. Cũng từ mảnh đất Ngọc Lặc, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy binh đánh thắng quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc, lập nên triều đại hậu Lê, triều đại phong kiến thịnh trị nhất so với các triều đại phong kiến khác. Việt Nam. Chính vì vậy, vùng đất Ngọc Lặc được các triều đại phong kiến Việt Nam ví như viên ngọc quý phải dùng lụa, gấm vóc bọc chặt để bảo vệ an toàn, hay viên ngọc quý phải cất giữ như một vị vua giữ “ấn” trong môi trường ẩm thấp. . . Tên huyện Ngọc Lặc có từ đó.
Thời Hậu Lê, thời Nguyễn cho tới Cách mệnh tháng Tám năm 1945, huyện Ngọc Lặc được phân thành 4 tổng, các tổng được viết tắt bằng các chữ cái đầu: Tog Ngoc (Ngọc Khê); Tổng Cốc (Cốc Xá); Tổng hạt (Hạt cao); Tổng Vân (Vân Am). Dưới tổng là các đơn vị trú ngụ cơ sở (xã, bản, mường, bản, nông trường, nông trường) và do các ông Mường, ông Cai, ông Lý trưởng cai quản. Thời Nguyễn, các đơn vị dân cư đông đúc được gọi là mường, làng hoặc do vị trí địa lý của nhiều làng trên khu vực thuận tiện cho việc lập làng như làng Mỹ Thị (nay là xã Mỹ Tân); Làng Cao Trĩ (nay là xã Cao Ngọc); thành lập các xã như xã Thạch Yên (gồm Mường Yên và một số làng phụ cận thuộc xã Thạch Lập ngày nay). Những đơn vị dân cư nhỏ hoặc mới tới khai hoang, lập nghiệp gọi là làng.
Sau Cách mệnh Tháng Tám, đơn vị tổng bị huỷ bỏ và thay thế bằng đơn vị xã, quy mô nhỏ hơn. Từ năm 1946-1963, huyện Ngọc Lặc được phân thành 12 xã: Tào Khê; Đô Lương; Quang Trung; Ngọc Thắng; Minh Sơn; Lộc Thịnh; Kiên Thọ; Phúc Thịnh; Dấu Mặt Trăng; Phùng Giáo; Vân Am và Lương Ngọc.
Từ năm 1963 tới năm 1982, phân thành 17 đơn vị hành chính: xã Tào Khê được phân thành (Ngọc Khê, Mỹ Tân và Cao Ngọc); chia xã Đô Lương thành Thụy Sơn và Thạch Lập; chia xã Lộc Thịnh thành Lộc Thịnh và Đồng Thịnh; chia xã Ngọc Thắng thành Ngọc Liên, Ngọc Trung, Ngọc Sơn và thành lập thị trấn nông trường Thống Nhất, thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn. Cũng trong năm 1963, cắt xã Lương Ngọc về huyện Thường Xuân (nay là xã Lương Sơn và Ngọc Phụng); cắt đất Kim Ơi Mường ở xã Quang Trung về huyện Cẩm Thủy (nay là xã Cẩm Châu); cắt đất Mường Nọc từ làng Quan Trì xã Lộc Thịnh về xã Yên Lâm huyện Yên Định ngày nay.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, thống nhất hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc. Các xã, thị trấn nông trường là: Thị trấn Nông trường Sông Âm, Thị trấn Nông trường Lam Sơn, Vân Am, Cao Ngọc, Mỹ Tân, Ngọc Khê, Thụy Sơn, Thạch Lập, Quang Trung, Đồng Thịnh, Lộc Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Ngọc Trung, Minh Sơn, Kiên Thọ, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh, Phùng Giáo, Quang Hiến, Đồng Lương, Tân Phúc, Tam Văn, Giao An, Trí Nang, Yên Khương, Lâm Phú.
Năm 1978, thị trấn Nông trường Thống Nhất được chuyển về huyện Yên Định quản lý, dân cư vẫn do huyện Ngọc Lặc quản lý.
Năm 1982, chia xã Lộc Thịnh thành xã Lộc Thịnh và xã Cao Thịnh; chia xã Minh Sơn thành xã Minh Sơn và xã Minh Tiến; chia xã Phùng Giáo thành các xã Phùng Giáo và Phùng Minh.
Từ ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Lương Ngọc Dược được phân thành huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc như ngày nay. Thời kỳ này, huyện Ngọc Lặc có 20 xã. Ngày 3 tháng 6 năm 1988, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định thành lập huyện lỵ Ngọc Lặc.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp nông, lâm nghiệp. Giải thể thị trấn nông trường Lam Sơn, thị trấn nông trường Sông Âm, đất đai và dân cư trước đây do thị trấn quản lý được chuyển ủy quyền các xã quản lý. Trên cơ sở thị trấn nông trường Lam Sơn quản lý, tiếp thu thôn Minh Thủy (xã Minh Tiến) để thành lập xã mới.
Ngày 09/01/2004 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết số 15 / CP về việc thành lập xã Lam Sơn.
Điểm thăm quan – Du lịch
Từ mùng 3 Tết tới gần hết tháng Giêng hàng năm, các bản Mường của huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) luôn tấp nập với lễ hội khai xuân.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Ngọc Lặc” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc
Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc -
Giới thiệu nói chung về huyện Ngọc Lặc
Ngọc Lạc là huyện cửa ngõ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực phía Tây tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Huyện có đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 15A đi qua, giáp Cảng hàng ko Thọ Xuân (khoảng 30 km), cách cảng nước sâu Nghi Sơn gần 100 km ...
Ngọc Lặc nằm cạnh Khu công nghiệp nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn Sao Vàng (đầu tàu kinh tế thứ 2 của tỉnh Thanh Hóa).
Ngọc Lặc có thể giao lưu tăng trưởng kinh tế với Hà Nội, Thị thành Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn của cả nước và cả nước bạn Lào. Nằm trong chiến lược tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa, Ngọc Lặc đã được Trung ương và tỉnh đầu tư trở nên đô thị vùng miền núi phía Tây của tỉnh.
Là một huyện miền núi phía Tây của Thanh Hóa, huyện Ngọc Lặc tiếp giáp với các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước (phía Bắc), Thọ Xuân, Thường Xuân (phía Nam), Lang Chánh (phía Tây), Thọ Xuan, and Tho Xuan. Yên Định (phía Đông);
Huyện Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 49.092,4 ha với khoảng 140.000 nhân khẩu, trong đó dân tộc Mường chiếm 70,5%, dân tộc Kinh 27,3%, dân tộc khác 2,2%.
Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính cấp xã (21 xã, 01 thị trấn). Ngọc Lặc chiếm khoảng 4,4% diện tích toàn tỉnh và 3,9 dân số.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Địa hình phức tạp, phía Tây có nhiều đồi (chiếm 40,1% diện tích), đỉnh Lam Sơn (472 m), phía Đông đồng bằng xen kẽ nhiều đồi. Sông Cầu Chày, sông Âm, sông Hép chảy qua.
Điều kiện xã hội:
Giao thông: Quốc lộ 15A (Từ đường Lê Duẩn, TT Ngọc Lặc tới giáp huyện Lang Chánh), tỉnh lộ 519 (Chỉ còn một đoạn gần 2km qua đường 1), đường Hồ Chí Minh (Trường tỉnh lộ 519 và đoạn của Quốc lộ 15A đoạn từ TT Ngọc Lặc tới Lam Kinh) chạy qua.
Hành chính: Gồm 1 thị trấn (Ngọc Lặc - huyện lỵ), 21 xã (Mỹ Tân, Thủy Sơn, Thạch Lập, Vân Am, Cao Ngọc, Ngọc Khê, Quang Trung, Đồng Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Lộc Thịnh), Cao Thịnh, Ngọc Trung, Phùng Giáo, Phùng Minh, Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Lam Sơn).
Dân số: Tổng dân số 146.272 người (2010), bình quân 295,2 người / km2, gồm các dân tộc: Mường, Dao, Thái, Kinh.
Lịch sử khởi đầu
Theo các sách địa chí, địa danh thời Lê, Nguyễn cũng như di chỉ khảo cổ học của các nhà khảo cổ người Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX, ở Ngọc Lặc đã phát xuất hiện các di chỉ của cư dân Ngọc Lặc. sống ở thời đại đồ đá mới (thuộc văn hóa Hòa Bình) trong các hang động như Động Mộc Trạch, Lộc Thịnh I, Lộc Thịnh II.
Vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn, trên đất Ngọc Lặc đã phát hiện những nhóm đồ đồng Đông Sơn gồm dụng cụ, vũ khí, trống đồng ở các xã Ngọc Khê qua các di chỉ khảo cổ ở núi Mả Me, núi Nu (Nguyên An). .
Đầu công nguyên Ngọc Lặc thuộc đất Đô Lũng.
Thời thuộc Hán, Ngọc Lặc thuộc huyện Vô Biên.
Dưới thời Tùy - Đường (581 - 905), đất Ngọc Lặc thuộc huyện Di Phong, rồi huyện Trường Lâm cho tới thời Đinh - Đầu Lê - Lý.
Thời Trần - Hồ thuộc huyện Nga Lạc (tương đương huyện Ngọc Lặc ngày nay và một phần huyện Thọ Xuân ở tả ngạn sông Chu).
Thời thuộc Minh, Nga Lạc và Lôi Giang được gọi là huyện Nga Lạc (tức huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thủy ngày nay).
Thời Hậu Lê, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên.
Thời Nguyễn là đất huyện Thủy Nguyên. Năm Thành Thái thứ 12 (1900), cắt tỉnh Ngọc Lặc và các xã Mường thuộc tổng Yên Trường, Quảng Thi (huyện Thủy Nguyên, huyện Thiệu Hóa) lập châu Ngọc, rồi châu Ngọc Lặc.
Sau Cách mệnh Tháng Tám (1945), bỏ “châu”, đổi thành huyện Ngọc Lặc.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, theo Quyết định 177-CP của Hội đồng Chính phủ, hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh được thống nhất gọi là huyện Lương Ngọc.
Ngày 30/8/1982 theo quyết định số 149-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng chia huyện Lương Ngọc thành hai huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc. Huyện Ngọc Lặc được giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay.
Tương tự, vùng đất Ngọc Lặc đã trải qua nhiều thời kỳ chia tách, sáp nhập, đổi tên không giống nhau, nhưng vùng đất Ngọc Lặc đã có dân cư từ khá sớm, có vị trí chiến lược quân sự trọng yếu, là nơi dân cư sinh sống. căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn. Cũng từ mảnh đất Ngọc Lặc, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy binh đánh thắng quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc, lập nên triều đại hậu Lê, triều đại phong kiến thịnh trị nhất so với các triều đại phong kiến khác. Việt Nam. Chính vì vậy, vùng đất Ngọc Lặc được các triều đại phong kiến Việt Nam ví như viên ngọc quý phải dùng lụa, gấm vóc bọc chặt để bảo vệ an toàn, hay viên ngọc quý phải cất giữ như một vị vua giữ “ấn” trong môi trường ẩm thấp. . . Tên huyện Ngọc Lặc có từ đó.
Thời Hậu Lê, thời Nguyễn cho tới Cách mệnh tháng Tám năm 1945, huyện Ngọc Lặc được phân thành 4 tổng, các tổng được viết tắt bằng các chữ cái đầu: Tog Ngoc (Ngọc Khê); Tổng Cốc (Cốc Xá); Tổng hạt (Hạt cao); Tổng Vân (Vân Am). Dưới tổng là các đơn vị trú ngụ cơ sở (xã, bản, mường, bản, nông trường, nông trường) và do các ông Mường, ông Cai, ông Lý trưởng cai quản. Thời Nguyễn, các đơn vị dân cư đông đúc được gọi là mường, làng hoặc do vị trí địa lý của nhiều làng trên khu vực thuận tiện cho việc lập làng như làng Mỹ Thị (nay là xã Mỹ Tân); Làng Cao Trĩ (nay là xã Cao Ngọc); thành lập các xã như xã Thạch Yên (gồm Mường Yên và một số làng phụ cận thuộc xã Thạch Lập ngày nay). Những đơn vị dân cư nhỏ hoặc mới tới khai hoang, lập nghiệp gọi là làng.
Sau Cách mệnh Tháng Tám, đơn vị tổng bị huỷ bỏ và thay thế bằng đơn vị xã, quy mô nhỏ hơn. Từ năm 1946-1963, huyện Ngọc Lặc được phân thành 12 xã: Tào Khê; Đô Lương; Quang Trung; Ngọc Thắng; Minh Sơn; Lộc Thịnh; Kiên Thọ; Phúc Thịnh; Dấu Mặt Trăng; Phùng Giáo; Vân Am và Lương Ngọc.
Từ năm 1963 tới năm 1982, phân thành 17 đơn vị hành chính: xã Tào Khê được phân thành (Ngọc Khê, Mỹ Tân và Cao Ngọc); chia xã Đô Lương thành Thụy Sơn và Thạch Lập; chia xã Lộc Thịnh thành Lộc Thịnh và Đồng Thịnh; chia xã Ngọc Thắng thành Ngọc Liên, Ngọc Trung, Ngọc Sơn và thành lập thị trấn nông trường Thống Nhất, thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn. Cũng trong năm 1963, cắt xã Lương Ngọc về huyện Thường Xuân (nay là xã Lương Sơn và Ngọc Phụng); cắt đất Kim Ơi Mường ở xã Quang Trung về huyện Cẩm Thủy (nay là xã Cẩm Châu); cắt đất Mường Nọc từ làng Quan Trì xã Lộc Thịnh về xã Yên Lâm huyện Yên Định ngày nay.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, thống nhất hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc. Các xã, thị trấn nông trường là: Thị trấn Nông trường Sông Âm, Thị trấn Nông trường Lam Sơn, Vân Am, Cao Ngọc, Mỹ Tân, Ngọc Khê, Thụy Sơn, Thạch Lập, Quang Trung, Đồng Thịnh, Lộc Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Ngọc Trung, Minh Sơn, Kiên Thọ, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh, Phùng Giáo, Quang Hiến, Đồng Lương, Tân Phúc, Tam Văn, Giao An, Trí Nang, Yên Khương, Lâm Phú.
Năm 1978, thị trấn Nông trường Thống Nhất được chuyển về huyện Yên Định quản lý, dân cư vẫn do huyện Ngọc Lặc quản lý.
Năm 1982, chia xã Lộc Thịnh thành xã Lộc Thịnh và xã Cao Thịnh; chia xã Minh Sơn thành xã Minh Sơn và xã Minh Tiến; chia xã Phùng Giáo thành các xã Phùng Giáo và Phùng Minh.
Từ ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Lương Ngọc Dược được phân thành huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc như ngày nay. Thời kỳ này, huyện Ngọc Lặc có 20 xã. Ngày 3 tháng 6 năm 1988, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định thành lập huyện lỵ Ngọc Lặc.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp nông, lâm nghiệp. Giải thể thị trấn nông trường Lam Sơn, thị trấn nông trường Sông Âm, đất đai và dân cư trước đây do thị trấn quản lý được chuyển ủy quyền các xã quản lý. Trên cơ sở thị trấn nông trường Lam Sơn quản lý, tiếp thu thôn Minh Thủy (xã Minh Tiến) để thành lập xã mới.
Ngày 09/01/2004 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết số 15 / CP về việc thành lập xã Lam Sơn.
Điểm thăm quan - Du lịch
Từ mùng 3 Tết tới gần hết tháng Giêng hàng năm, các bản Mường của huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) luôn tấp nập với lễ hội khai xuân.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/06/4-23.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”Huyện Ngọc Lặc – tỉnh Thanh Hóa” title=”Giới thiệu khái quát về huyện Ngọc Lặc – tỉnh Thanh Hóa – vansudia.net”>
Giới thiệu khái quát về huyện Ngọc Lặc
Ngọc Lạc là huyện cửa ngõ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực phía Tây tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Huyện có đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 15A đi qua, giáp Cảng hàng không Thọ Xuân (khoảng 30 km), cách cảng nước sâu Nghi Sơn gần 100 km …
Ngọc Lặc nằm cạnh Khu công nghiệp nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn Sao Vàng (đầu tàu kinh tế thứ 2 của tỉnh Thanh Hóa).
Ngọc Lặc có thể giao lưu phát triển kinh tế với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn của cả nước và cả nước bạn Lào. Nằm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hóa, Ngọc Lặc đã được Trung ương và tỉnh đầu tư phát triển thành đô thị vùng miền núi phía Tây của tỉnh.
Là một huyện miền núi phía Tây của Thanh Hóa, huyện Ngọc Lặc tiếp giáp với các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước (phía Bắc), Thọ Xuân, Thường Xuân (phía Nam), Lang Chánh (phía Tây), Thọ Xuan, and Tho Xuan. Yên Định (phía Đông);
Huyện Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 49.092,4 ha với khoảng 140.000 nhân khẩu, trong đó dân tộc Mường chiếm 70,5%, dân tộc Kinh 27,3%, dân tộc khác 2,2%.
Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính cấp xã (21 xã, 01 thị trấn). Ngọc Lặc chiếm khoảng 4,4% diện tích toàn tỉnh và 3,9 dân số.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Địa hình phức tạp, phía Tây có nhiều đồi (chiếm 40,1% diện tích), đỉnh Lam Sơn (472 m), phía Đông đồng bằng xen kẽ nhiều đồi. Sông Cầu Chày, sông Âm, sông Hép chảy qua.
Điều kiện xã hội:
Giao thông: Quốc lộ 15A (Từ đường Lê Duẩn, TT Ngọc Lặc đến giáp huyện Lang Chánh), tỉnh lộ 519 (Chỉ còn một đoạn gần 2km qua đường 1), đường Hồ Chí Minh (Trường tỉnh lộ 519 và đoạn của Quốc lộ 15A đoạn từ TT Ngọc Lặc đến Lam Kinh) chạy qua.
Hành chính: Gồm 1 thị trấn (Ngọc Lặc – huyện lỵ), 21 xã (Mỹ Tân, Thủy Sơn, Thạch Lập, Vân Am, Cao Ngọc, Ngọc Khê, Quang Trung, Đồng Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Lộc Thịnh), Cao Thịnh, Ngọc Trung, Phùng Giáo, Phùng Minh, Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Lam Sơn).
Dân số: Tổng dân số 146.272 người (2010), bình quân 295,2 người / km2, gồm các dân tộc: Mường, Dao, Thái, Kinh.
Lịch sử bắt đầu
Theo các sách địa chí, địa danh thời Lê, Nguyễn cũng như di chỉ khảo cổ học của các nhà khảo cổ người Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX, ở Ngọc Lặc đã phát hiện ra các di chỉ của cư dân Ngọc Lặc. sống ở thời đại đồ đá mới (thuộc văn hóa Hòa Bình) trong các hang động như Động Mộc Trạch, Lộc Thịnh I, Lộc Thịnh II.
Vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn, trên đất Ngọc Lặc đã phát hiện những nhóm đồ đồng Đông Sơn gồm công cụ, vũ khí, trống đồng ở các xã Ngọc Khê qua các di chỉ khảo cổ ở núi Mả Me, núi Nu (Nguyên An). .
Đầu công nguyên Ngọc Lặc thuộc đất Đô Lũng.
Thời thuộc Hán, Ngọc Lặc thuộc huyện Vô Biên.
Dưới thời Tùy – Đường (581 – 905), đất Ngọc Lặc thuộc huyện Di Phong, rồi huyện Trường Lâm cho đến thời Đinh – Đầu Lê – Lý.
Thời Trần – Hồ thuộc huyện Nga Lạc (tương đương huyện Ngọc Lặc ngày nay và một phần huyện Thọ Xuân ở tả ngạn sông Chu).
Thời thuộc Minh, Nga Lạc và Lôi Giang được gọi là huyện Nga Lạc (tức huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thủy ngày nay).
Thời Hậu Lê, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên.
Thời Nguyễn là đất huyện Thủy Nguyên. Năm Thành Thái thứ 12 (1900), cắt tỉnh Ngọc Lặc và các xã Mường thuộc tổng Yên Trường, Quảng Thi (huyện Thủy Nguyên, huyện Thiệu Hóa) lập châu Ngọc, rồi châu Ngọc Lặc.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), bỏ “châu”, đổi thành huyện Ngọc Lặc.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, theo Quyết định 177-CP của Hội đồng Chính phủ, hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh được hợp nhất gọi là huyện Lương Ngọc.
Ngày 30/8/1982 theo quyết định số 149-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng chia huyện Lương Ngọc thành hai huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc. Huyện Ngọc Lặc được giữ nguyên tên gọi cho đến ngày nay.
Như vậy, vùng đất Ngọc Lặc đã trải qua nhiều thời kỳ chia tách, sáp nhập, đổi tên khác nhau, nhưng vùng đất Ngọc Lặc đã có dân cư từ khá sớm, có vị trí chiến lược quân sự trọng yếu, là nơi dân cư sinh sống. căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn. Cũng từ mảnh đất Ngọc Lặc, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy binh đánh thắng quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc, lập nên triều đại hậu Lê, triều đại phong kiến thịnh trị nhất so với các triều đại phong kiến khác. Việt Nam. Chính vì vậy, vùng đất Ngọc Lặc được các triều đại phong kiến Việt Nam ví như viên ngọc quý phải dùng lụa, gấm vóc bọc chặt để bảo vệ an toàn, hay viên ngọc quý phải cất giữ như một vị vua giữ “ấn” trong môi trường ẩm thấp. . . Tên huyện Ngọc Lặc có từ đó.
Thời Hậu Lê, thời Nguyễn cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Ngọc Lặc được chia thành 4 tổng, các tổng được viết tắt bằng các chữ cái đầu: Tog Ngoc (Ngọc Khê); Tổng Cốc (Cốc Xá); Tổng hạt (Hạt cao); Tổng Vân (Vân Am). Dưới tổng là các đơn vị cư trú cơ sở (xã, bản, mường, bản, nông trường, nông trường) và do các ông Mường, ông Cai, ông Lý trưởng cai quản. Thời Nguyễn, các đơn vị dân cư đông đúc được gọi là mường, làng hoặc do vị trí địa lý của nhiều làng trên địa bàn thuận lợi cho việc lập làng như làng Mỹ Thị (nay là xã Mỹ Tân); Làng Cao Trĩ (nay là xã Cao Ngọc); thành lập các xã như xã Thạch Yên (gồm Mường Yên và một số làng lân cận thuộc xã Thạch Lập ngày nay). Những đơn vị dân cư nhỏ hoặc mới đến khai hoang, lập nghiệp gọi là làng.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đơn vị tổng bị bãi bỏ và thay thế bằng đơn vị xã, quy mô nhỏ hơn. Từ năm 1946-1963, huyện Ngọc Lặc được chia thành 12 xã: Tào Khê; Đô Lương; Quang Trung; Ngọc Thắng; Minh Sơn; Lộc Thịnh; Kiên Thọ; Phúc Thịnh; Dấu Mặt Trăng; Phùng Giáo; Vân Am và Lương Ngọc.
Từ năm 1963 đến năm 1982, chia thành 17 đơn vị hành chính: xã Tào Khê được chia thành (Ngọc Khê, Mỹ Tân và Cao Ngọc); chia xã Đô Lương thành Thụy Sơn và Thạch Lập; chia xã Lộc Thịnh thành Lộc Thịnh và Đồng Thịnh; chia xã Ngọc Thắng thành Ngọc Liên, Ngọc Trung, Ngọc Sơn và thành lập thị trấn nông trường Thống Nhất, thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn. Cũng trong năm 1963, cắt xã Lương Ngọc về huyện Thường Xuân (nay là xã Lương Sơn và Ngọc Phụng); cắt đất Kim Ơi Mường ở xã Quang Trung về huyện Cẩm Thủy (nay là xã Cẩm Châu); cắt đất Mường Nọc từ làng Quan Trì xã Lộc Thịnh về xã Yên Lâm huyện Yên Định ngày nay.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, hợp nhất hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc. Các xã, thị trấn nông trường là: Thị trấn Nông trường Sông Âm, Thị trấn Nông trường Lam Sơn, Vân Am, Cao Ngọc, Mỹ Tân, Ngọc Khê, Thụy Sơn, Thạch Lập, Quang Trung, Đồng Thịnh, Lộc Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Ngọc Trung, Minh Sơn, Kiên Thọ, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh, Phùng Giáo, Quang Hiến, Đồng Lương, Tân Phúc, Tam Văn, Giao An, Trí Nang, Yên Khương, Lâm Phú.
Năm 1978, thị trấn Nông trường Thống Nhất được chuyển về huyện Yên Định quản lý, dân cư vẫn do huyện Ngọc Lặc quản lý.
Năm 1982, chia xã Lộc Thịnh thành xã Lộc Thịnh và xã Cao Thịnh; chia xã Minh Sơn thành xã Minh Sơn và xã Minh Tiến; chia xã Phùng Giáo thành các xã Phùng Giáo và Phùng Minh.
Từ ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Lương Ngọc Dược được chia thành huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc như ngày nay. Thời kỳ này, huyện Ngọc Lặc có 20 xã. Ngày 3 tháng 6 năm 1988, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định thành lập huyện lỵ Ngọc Lặc.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp nông, lâm nghiệp. Giải thể thị trấn nông trường Lam Sơn, thị trấn nông trường Sông Âm, đất đai và dân cư trước đây do thị trấn quản lý được chuyển giao cho các xã quản lý. Trên cơ sở thị trấn nông trường Lam Sơn quản lý, tiếp nhận thôn Minh Thủy (xã Minh Tiến) để thành lập xã mới.
Ngày 09/01/2004 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết số 15 / CP về việc thành lập xã Lam Sơn.
Điểm tham quan – Du lịch
Từ mùng 3 Tết đến gần hết tháng Giêng hàng năm, các bản Mường của huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) luôn nhộn nhịp với lễ hội khai xuân.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Ngọc #Lặc
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Ngọc Lặc bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Ngọc #Lặc
Trả lời