Diện tích: 98,039 ha.
Dân số: 73.011 người (khảo sát dân số năm 2016).
Vị trí địa lý:
– Phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum.
– Nam giáp: huyện Ia Grai, thị thành Pleiku.
– Đông giáp: huyện Đak Đoa.
– Phía Tây giáp: tỉnh Kon Tum.
Đơn vị hành chính xã, thị trấn: 15 (2 thị trấn và 13 xã – trong đó có 4 xã đặc thù khó khăn.
– Thị trấn Phú Hòa, thị trấn Ia Ly.
– Các xã: Chư Đăng Ya, Chư Jơr, Đăk Tơ Ver, Hà Tây, Hòa Phú, Ia Ka, Ia Khương, Ia Mơ Nông, Ia Phí, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hưng, Ia Kreng, Ia Nhin.
– 4 xã đặc thù khó khăn: Ia Kreng, Chư Đăng Ya, Hà Tây, Đăk Tơ Ver.
Huyện được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/11/1996 của Chính phủ và được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai, huyện Chư Pah tổ chức lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 02/01/1997 .Huyện ChưPăh được thành lập trên cơ sở 6 xã của huyện Chư Pah cũ (nay là huyện Ia Grai), 3 xã của huyện Mang Yang cũ (nay là huyện Đak Đoa) và 2 xã của thị trấn PleiKu (nay là thị thành PleiKu). . Huyện nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Gia Lai, trung tâm huyện cách thị thành Pleiku 15 km; phía Đông và Bắc giáp huyện Đak Đoa, phía Tây và Bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp huyện Ia Grai và thị thành Pleiku; Chảy dọc ranh giới huyện Chư Păh với huyện Sa Thầy của tỉnh Kon Tum là sông Ia Krông Bô Lan, một chi lưu của sông Sê San, nơi có nhà máy thủy điện Yaly. Huyện cũng có chung Biển Hồ với thị thành Pleiku, hồ này nằm trên địa phận hai xã Nghĩa Hưng và Chư Jór. Trên khu vực huyện có thác Cống Chùa, thủy điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mnông. làng Phùng) là những điểm thăm quan thu hút nhiều du khách. Quốc lộ 14 chạy qua giữa huyện theo hướng bắc nam, từ thị thành Kon Tum, tỉnh Kon Tum qua thị trấn Phú Hòa tới thị thành Pleiku, tiếp giáp với quốc lộ 19 nối Pleiku với Quy Nhơn; có tổng diện tích tự nhiên 98.039 ha, toàn huyện có 13 xã, 02 thị trấn với 123 thôn, làng, tổ dân phố. Toàn huyện có 17.817 hộ với 73.011 nhân khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 52%, huyện có 4 xã đặc thù khó khăn.
Là huyện giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, tài nguyên, du lịch, thủy điện. Đất đai trên khu vực chủ yếu là đất đỏ bazan thích hợp tăng trưởng các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, cao su, khư khư,…
Nền kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với tổng diện tích gieo trồng hàng năm gần 22.000 ha cây trồng các loại; trong đó, cây công nghiệp hơn 11.000 ha (chủ yếu là cà phê, cao su, hồ tiêu, bời lời); Diện tích đồng cỏ và rừng tương đối lớn thuận tiện cho tăng trưởng chăn nuôi.
Trên khu vực huyện có một số cơ sở công nghiệp như: Thủy điện IaLy (cách trung tâm huyện 25 km), Thủy điện SêSan3 (cách trung tâm huyện khoảng 52 km), Thủy điện RyNinh I và RyNinh. II (cách trung tâm huyện khoảng 22-24 km), Nhà máy Thủy điện Hà Tây (cách trung tâm huyện 30 km), Nhà máy chế biến chè – cà phê (cách trung tâm huyện khoảng 3 km), Nhà máy xi măng, gạch tuyn, khí etilen (cách trung tâm huyện khoảng 3 km). cách trung tâm huyện 1,5km), nhà máy cán thép (cách trung tâm huyện 4km), trạm biến áp 500kv Pleiku (cách trung tâm huyện khoảng 2km) và đặc thù trong quá trình tăng trưởng kinh tế – xã hội, huyện đã tạo nên và xây dựng khu công nghiệp – cụm tiểu thủ công nghiệp có quy mô khoảng 53,19 ha trên khu vực xã Ia Khương (cách trung tâm huyện khoảng 20 km về phía Bắc, cách thị thành Kon Tum (tỉnh Kon Tum) khoảng 10 km), nằm trên Quốc lộ 14; tới nay , đã có 05 đơn vị đầu tư vào cụm công nghiệp, 02 đơn vị lập dự án xin đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh với số vốn đầu tư hơn 110 tỷ đồng; nhiều doanh nghiệp đã và đang xúc tiến các thủ tục đầu tư, gia công, thu sắm nông sản, cà phê, sản xuất gạch ko nung xi măng, kinh doanh vận tải, du lịch, trồng rừng, khai thác tài nguyên, nuôi trồng thủy sản. sản xuất.
Ngoài ra, huyện còn có nhiều tiềm năng về du lịch như thác Cống Chúa, thủy điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mơnông (làng Pung, buôn Kép), núi Một (xã Chư Jór), núi Chư Đăng Ya (xã Chư Đăng Ya) . Chư Đăng Ya),… là những điểm thăm quan thu hút nhiều du khách.
Nhờ khai thác tốt tiềm năng thế mạnh nên vận tốc tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm hơn 13%. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương nghiệp – dịch vụ; Tới nay, tỷ trọng nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 42,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng chiếm 36,2%, thương nghiệp – dịch vụ chiếm 21,6%; thu nhập bình quân đầu người 30,77 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều khởi sắc, tỉ lệ học trò tốt nghiệp các ngành học hàng năm đạt trên 98%; Toàn huyện có 17 trường đạt chuẩn quốc gia; Các trường ở cụm trung tâm đều đã được phân tầng, hạ tầng ngày càng được đầu tư phục vụ nhu cầu dạy và học. Ban hành Nghị quyết chuyên đề về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Jrai, Bahnar trên khu vực huyện thời đoạn 2011 – 2015 và định hướng tới năm 2020); có đội cồng chiêng xã Ia Ka được mời đi trình diễn nhiều nơi trong cả nước; 72% số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, 84% số thôn, làng, tổ dân phố đạt danh hiệu thôn, làng, tổ dân phố văn hóa; 100% thôn, làng xây dựng hương án; đơn vị văn hóa đạt 95%. tỉ lệ hộ nghèo hiện nay là 17,68% (theo tiêu chí hiện hành. Làm tốt công việc phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe lúc đầu, tăng lên chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,2%; tỉ lệ hộ nghèo hiện tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 23%, bình quân có 5 thầy thuốc/vạn dân, 14/15 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Hoạt động thương nghiệp, dịch vụ có nhiều khởi sắc, trọng tâm là quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn, đầu tư xây dựng kiên cố các chợ tại các xã: Nghĩa Hưng, Hòa Phú, Ia Nhin, Ia Ly và thị trấn Phú. Vẽ tranh; Chợ thị trấn Phú Hòa bước đầu tạo nên trung tâm thương nghiệp trong toàn huyện phục vụ nhu cầu của nhân dân trên khu vực. Tiềm năng du lịch bước đầu được chú trọng quy hoạch và khai thác. Dịch vụ nhà băng, bưu chính, viễn thông tiếp tục tăng trưởng, thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng được mở rộng, việc trao đổi, sắm bán nông sản, cung ứng vật tư, vật liệu được cải thiện. nhiên liệu, thực phẩm thiết yếu phục vụ ngày càng nhiều chủng loại.
Thu ngân sách địa phương năm sau cao hơn năm trước, trong đó thu ngân sách được phân cấp hàng năm đều tăng, đảm bảo hợp lý 25% tổng chi thường xuyên của huyện.
Về quốc phòng an ninh, trong bối cảnh dân số tăng nhanh, thành phần dân cư ngày càng phức tạp, huyện đã thực hiện nhiều giải pháp từng bước kiềm chế tội phạm hình sự, tỉ lệ tội phạm ngày càng tăng, lực lượng vũ trang huyện luôn được tăng cường về chất và lượng. . Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị cơ bản được giữ vững, cô lập, vô hiệu hóa hoạt động của bọn phản động Fulro, Tin lành. “Đêga”; đảm kiểm soát an ninh ninh nông thôn, an ninh tư tưởng, an ninh tôn giáo được quan tâm; hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, kiện toàn; chủ động nắm chắc tình hình, khắc phục kịp thời những vấn đề phức tạp phát sinh ở cơ sở, làm thất bại thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Hiệu quả quản lý, quản lý của chính quyền từ huyện tới cơ sở có nhiều tiến bộ, đã đổi mới lề lối, thứ tự làm việc, bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và thực xây cất vụ. công việc hành chính một số lĩnh vực cho tổ chức, công dân theo cơ chế “Một cánh cửa điện tử” trong huyện.
Công việc xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực; Quan tâm, chú trọng công việc tăng trưởng đảng viên, nhất là kết nạp đảng viên ở thôn, làng, tổ dân phố, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng viên là người có đạo, đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân. ; Tới nay, Đảng bộ huyện có 52 tổ chức cơ sở đảng (gồm 19 đảng bộ, 33 chi bộ, 211 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở).
Mặt trận và các đoàn thể từ huyện tới cơ sở tập trung tuyên truyền, tăng lên chất lượng hoạt động, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, toàn dân tham gia bảo tồn. An ninh quốc gia. Tăng mạnh công việc kết nạp hội viên, đoàn viên, hội viên. Tập trung tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới quần chúng nhân dân, vận động tăng lên ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Thời kỳ 2015 – 2020, toàn huyện phấn đấu duy trì vận tốc tăng trưởng hàng năm từ 13% trở lên; tăng mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để tăng lên năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện; đẩy nhanh dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; huy động các nguồn lực xã hội đầu tư tăng trưởng sản xuất kinh doanh; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo; quan tâm công việc huấn luyện, bồi dưỡng hàng ngũ cán bộ cơ sở.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện ChưPăh” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh
Video về: Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh
Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh -
Diện tích: 98,039 ha.
Dân số: 73.011 người (khảo sát dân số năm 2016).
Vị trí địa lý:
- Phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum.
– Nam giáp: huyện Ia Grai, thị thành Pleiku.
– Đông giáp: huyện Đak Đoa.
– Phía Tây giáp: tỉnh Kon Tum.
Đơn vị hành chính xã, thị trấn: 15 (2 thị trấn và 13 xã – trong đó có 4 xã đặc thù khó khăn.
– Thị trấn Phú Hòa, thị trấn Ia Ly.
– Các xã: Chư Đăng Ya, Chư Jơr, Đăk Tơ Ver, Hà Tây, Hòa Phú, Ia Ka, Ia Khương, Ia Mơ Nông, Ia Phí, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hưng, Ia Kreng, Ia Nhin.
– 4 xã đặc thù khó khăn: Ia Kreng, Chư Đăng Ya, Hà Tây, Đăk Tơ Ver.
Huyện được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/11/1996 của Chính phủ và được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai, huyện Chư Pah tổ chức lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 02/01/1997 .Huyện ChưPăh được thành lập trên cơ sở 6 xã của huyện Chư Pah cũ (nay là huyện Ia Grai), 3 xã của huyện Mang Yang cũ (nay là huyện Đak Đoa) và 2 xã của thị trấn PleiKu (nay là thị thành PleiKu). . Huyện nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Gia Lai, trung tâm huyện cách thị thành Pleiku 15 km; phía Đông và Bắc giáp huyện Đak Đoa, phía Tây và Bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp huyện Ia Grai và thị thành Pleiku; Chảy dọc ranh giới huyện Chư Păh với huyện Sa Thầy của tỉnh Kon Tum là sông Ia Krông Bô Lan, một chi lưu của sông Sê San, nơi có nhà máy thủy điện Yaly. Huyện cũng có chung Biển Hồ với thị thành Pleiku, hồ này nằm trên địa phận hai xã Nghĩa Hưng và Chư Jór. Trên khu vực huyện có thác Cống Chùa, thủy điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mnông. làng Phùng) là những điểm thăm quan thu hút nhiều du khách. Quốc lộ 14 chạy qua giữa huyện theo hướng bắc nam, từ thị thành Kon Tum, tỉnh Kon Tum qua thị trấn Phú Hòa tới thị thành Pleiku, tiếp giáp với quốc lộ 19 nối Pleiku với Quy Nhơn; có tổng diện tích tự nhiên 98.039 ha, toàn huyện có 13 xã, 02 thị trấn với 123 thôn, làng, tổ dân phố. Toàn huyện có 17.817 hộ với 73.011 nhân khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 52%, huyện có 4 xã đặc thù khó khăn.
Là huyện giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, tài nguyên, du lịch, thủy điện. Đất đai trên khu vực chủ yếu là đất đỏ bazan thích hợp tăng trưởng các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, cao su, khư khư,...
Nền kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với tổng diện tích gieo trồng hàng năm gần 22.000 ha cây trồng các loại; trong đó, cây công nghiệp hơn 11.000 ha (chủ yếu là cà phê, cao su, hồ tiêu, bời lời); Diện tích đồng cỏ và rừng tương đối lớn thuận tiện cho tăng trưởng chăn nuôi.
Trên khu vực huyện có một số cơ sở công nghiệp như: Thủy điện IaLy (cách trung tâm huyện 25 km), Thủy điện SêSan3 (cách trung tâm huyện khoảng 52 km), Thủy điện RyNinh I và RyNinh. II (cách trung tâm huyện khoảng 22-24 km), Nhà máy Thủy điện Hà Tây (cách trung tâm huyện 30 km), Nhà máy chế biến chè - cà phê (cách trung tâm huyện khoảng 3 km), Nhà máy xi măng, gạch tuyn, khí etilen (cách trung tâm huyện khoảng 3 km). cách trung tâm huyện 1,5km), nhà máy cán thép (cách trung tâm huyện 4km), trạm biến áp 500kv Pleiku (cách trung tâm huyện khoảng 2km) và đặc thù trong quá trình tăng trưởng kinh tế - xã hội, huyện đã tạo nên và xây dựng khu công nghiệp - cụm tiểu thủ công nghiệp có quy mô khoảng 53,19 ha trên khu vực xã Ia Khương (cách trung tâm huyện khoảng 20 km về phía Bắc, cách thị thành Kon Tum (tỉnh Kon Tum) khoảng 10 km), nằm trên Quốc lộ 14; tới nay , đã có 05 đơn vị đầu tư vào cụm công nghiệp, 02 đơn vị lập dự án xin đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh với số vốn đầu tư hơn 110 tỷ đồng; nhiều doanh nghiệp đã và đang xúc tiến các thủ tục đầu tư, gia công, thu sắm nông sản, cà phê, sản xuất gạch ko nung xi măng, kinh doanh vận tải, du lịch, trồng rừng, khai thác tài nguyên, nuôi trồng thủy sản. sản xuất.
Ngoài ra, huyện còn có nhiều tiềm năng về du lịch như thác Cống Chúa, thủy điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mơnông (làng Pung, buôn Kép), núi Một (xã Chư Jór), núi Chư Đăng Ya (xã Chư Đăng Ya) . Chư Đăng Ya),… là những điểm thăm quan thu hút nhiều du khách.
Nhờ khai thác tốt tiềm năng thế mạnh nên vận tốc tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm hơn 13%. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương nghiệp - dịch vụ; Tới nay, tỷ trọng nông - lâm nghiệp và thủy sản chiếm 42,2%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 36,2%, thương nghiệp - dịch vụ chiếm 21,6%; thu nhập bình quân đầu người 30,77 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều khởi sắc, tỉ lệ học trò tốt nghiệp các ngành học hàng năm đạt trên 98%; Toàn huyện có 17 trường đạt chuẩn quốc gia; Các trường ở cụm trung tâm đều đã được phân tầng, hạ tầng ngày càng được đầu tư phục vụ nhu cầu dạy và học. Ban hành Nghị quyết chuyên đề về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Jrai, Bahnar trên khu vực huyện thời đoạn 2011 - 2015 và định hướng tới năm 2020); có đội cồng chiêng xã Ia Ka được mời đi trình diễn nhiều nơi trong cả nước; 72% số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, 84% số thôn, làng, tổ dân phố đạt danh hiệu thôn, làng, tổ dân phố văn hóa; 100% thôn, làng xây dựng hương án; đơn vị văn hóa đạt 95%. tỉ lệ hộ nghèo hiện nay là 17,68% (theo tiêu chí hiện hành. Làm tốt công việc phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe lúc đầu, tăng lên chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,2%; tỉ lệ hộ nghèo hiện tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 23%, bình quân có 5 thầy thuốc/vạn dân, 14/15 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Hoạt động thương nghiệp, dịch vụ có nhiều khởi sắc, trọng tâm là quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn, đầu tư xây dựng kiên cố các chợ tại các xã: Nghĩa Hưng, Hòa Phú, Ia Nhin, Ia Ly và thị trấn Phú. Vẽ tranh; Chợ thị trấn Phú Hòa bước đầu tạo nên trung tâm thương nghiệp trong toàn huyện phục vụ nhu cầu của nhân dân trên khu vực. Tiềm năng du lịch bước đầu được chú trọng quy hoạch và khai thác. Dịch vụ nhà băng, bưu chính, viễn thông tiếp tục tăng trưởng, thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng được mở rộng, việc trao đổi, sắm bán nông sản, cung ứng vật tư, vật liệu được cải thiện. nhiên liệu, thực phẩm thiết yếu phục vụ ngày càng nhiều chủng loại.
Thu ngân sách địa phương năm sau cao hơn năm trước, trong đó thu ngân sách được phân cấp hàng năm đều tăng, đảm bảo hợp lý 25% tổng chi thường xuyên của huyện.
Về quốc phòng an ninh, trong bối cảnh dân số tăng nhanh, thành phần dân cư ngày càng phức tạp, huyện đã thực hiện nhiều giải pháp từng bước kiềm chế tội phạm hình sự, tỉ lệ tội phạm ngày càng tăng, lực lượng vũ trang huyện luôn được tăng cường về chất và lượng. . Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị cơ bản được giữ vững, cô lập, vô hiệu hóa hoạt động của bọn phản động Fulro, Tin lành. "Đêga"; đảm kiểm soát an ninh ninh nông thôn, an ninh tư tưởng, an ninh tôn giáo được quan tâm; hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, kiện toàn; chủ động nắm chắc tình hình, khắc phục kịp thời những vấn đề phức tạp phát sinh ở cơ sở, làm thất bại thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Hiệu quả quản lý, quản lý của chính quyền từ huyện tới cơ sở có nhiều tiến bộ, đã đổi mới lề lối, thứ tự làm việc, bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và thực xây cất vụ. công việc hành chính một số lĩnh vực cho tổ chức, công dân theo cơ chế “Một cánh cửa điện tử” trong huyện.
Công việc xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực; Quan tâm, chú trọng công việc tăng trưởng đảng viên, nhất là kết nạp đảng viên ở thôn, làng, tổ dân phố, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng viên là người có đạo, đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân. ; Tới nay, Đảng bộ huyện có 52 tổ chức cơ sở đảng (gồm 19 đảng bộ, 33 chi bộ, 211 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở).
Mặt trận và các đoàn thể từ huyện tới cơ sở tập trung tuyên truyền, tăng lên chất lượng hoạt động, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, toàn dân tham gia bảo tồn. An ninh quốc gia. Tăng mạnh công việc kết nạp hội viên, đoàn viên, hội viên. Tập trung tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới quần chúng nhân dân, vận động tăng lên ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Thời kỳ 2015 - 2020, toàn huyện phấn đấu duy trì vận tốc tăng trưởng hàng năm từ 13% trở lên; tăng mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để tăng lên năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện; đẩy nhanh dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; huy động các nguồn lực xã hội đầu tư tăng trưởng sản xuất kinh doanh; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo; quan tâm công việc huấn luyện, bồi dưỡng hàng ngũ cán bộ cơ sở.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Diện tích: 98,039 ha.
Dân số: 73.011 người (điều tra dân số năm 2016).
Vị trí địa lý:
– Phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum.
– Nam giáp: huyện Ia Grai, thành phố Pleiku.
– Đông giáp: huyện Đak Đoa.
– Phía Tây giáp: tỉnh Kon Tum.
Đơn vị hành chính xã, thị trấn: 15 (2 thị trấn và 13 xã – trong đó có 4 xã đặc biệt khó khăn.
– Thị trấn Phú Hòa, thị trấn Ia Ly.
– Các xã: Chư Đăng Ya, Chư Jơr, Đăk Tơ Ver, Hà Tây, Hòa Phú, Ia Ka, Ia Khương, Ia Mơ Nông, Ia Phí, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hưng, Ia Kreng, Ia Nhin.
– 4 xã đặc biệt khó khăn: Ia Kreng, Chư Đăng Ya, Hà Tây, Đăk Tơ Ver.
Huyện được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/11/1996 của Chính phủ và được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai, huyện Chư Pah tổ chức lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 02/01/1997 .Huyện ChưPăh được thành lập trên cơ sở 6 xã của huyện Chư Pah cũ (nay là huyện Ia Grai), 3 xã của huyện Mang Yang cũ (nay là huyện Đak Đoa) và 2 xã của thị trấn PleiKu (nay là thành phố PleiKu). . Huyện nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Gia Lai, trung tâm huyện cách thành phố Pleiku 15 km; phía Đông và Bắc giáp huyện Đak Đoa, phía Tây và Bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía Nam giáp huyện Ia Grai và thành phố Pleiku; Chảy dọc ranh giới huyện Chư Păh với huyện Sa Thầy của tỉnh Kon Tum là sông Ia Krông Bô Lan, một chi lưu của sông Sê San, nơi có nhà máy thủy điện Yaly. Huyện cũng có chung Biển Hồ với thành phố Pleiku, hồ này nằm trên địa phận hai xã Nghĩa Hưng và Chư Jór. Trên địa bàn huyện có thác Cống Chùa, thủy điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mnông. làng Phùng) là những điểm tham quan thu hút nhiều du khách. Quốc lộ 14 chạy qua giữa huyện theo hướng bắc nam, từ thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum qua thị trấn Phú Hòa đến thành phố Pleiku, tiếp giáp với quốc lộ 19 nối Pleiku với Quy Nhơn; có tổng diện tích tự nhiên 98.039 ha, toàn huyện có 13 xã, 02 thị trấn với 123 thôn, làng, tổ dân phố. Toàn huyện có 17.817 hộ với 73.011 nhân khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 52%, huyện có 4 xã đặc biệt khó khăn.
Là huyện giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, du lịch, thủy điện. Đất đai trên địa bàn chủ yếu là đất đỏ bazan thích hợp phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, cao su, bo bo,…
Nền kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với tổng diện tích gieo trồng hàng năm gần 22.000 ha cây trồng các loại; trong đó, cây công nghiệp hơn 11.000 ha (chủ yếu là cà phê, cao su, hồ tiêu, bời lời); Diện tích đồng cỏ và rừng tương đối lớn thuận lợi cho phát triển chăn nuôi.
Trên địa bàn huyện có một số cơ sở công nghiệp như: Thủy điện IaLy (cách trung tâm huyện 25 km), Thủy điện SêSan3 (cách trung tâm huyện khoảng 52 km), Thủy điện RyNinh I và RyNinh. II (cách trung tâm huyện khoảng 22-24 km), Nhà máy Thủy điện Hà Tây (cách trung tâm huyện 30 km), Nhà máy chế biến chè – cà phê (cách trung tâm huyện khoảng 3 km), Nhà máy xi măng, gạch tuyn, khí etilen (cách trung tâm huyện khoảng 3 km). cách trung tâm huyện 1,5km), nhà máy cán thép (cách trung tâm huyện 4km), trạm biến áp 500kv Pleiku (cách trung tâm huyện khoảng 2km) và đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, huyện đã hình thành và xây dựng khu công nghiệp – cụm tiểu thủ công nghiệp có quy mô khoảng 53,19 ha trên địa bàn xã Ia Khương (cách trung tâm huyện khoảng 20 km về phía Bắc, cách thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum) khoảng 10 km), nằm trên Quốc lộ 14; đến nay , đã có 05 đơn vị đầu tư vào cụm công nghiệp, 02 đơn vị lập dự án xin đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh với số vốn đầu tư hơn 110 tỷ đồng; nhiều doanh nghiệp đã và đang xúc tiến các thủ tục đầu tư, gia công, thu mua nông sản, cà phê, sản xuất gạch không nung xi măng, kinh doanh vận tải, du lịch, trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản. sản xuất.
Ngoài ra, huyện còn có nhiều tiềm năng về du lịch như thác Cống Chúa, thủy điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mơnông (làng Pung, buôn Kép), núi Một (xã Chư Jór), núi Chư Đăng Ya (xã Chư Đăng Ya) . Chư Đăng Ya),… là những điểm tham quan thu hút nhiều du khách.
Nhờ khai thác tốt tiềm năng thế mạnh nên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm hơn 13%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ; Đến nay, tỷ trọng nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 42,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng chiếm 36,2%, thương mại – dịch vụ chiếm 21,6%; thu nhập bình quân đầu người 30,77 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều khởi sắc, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học hàng năm đạt trên 98%; Toàn huyện có 17 trường đạt chuẩn quốc gia; Các trường ở cụm trung tâm đều đã được phân tầng, cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư đáp ứng nhu cầu dạy và học. Ban hành Nghị quyết chuyên đề về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Jrai, Bahnar trên địa bàn huyện giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020); có đội cồng chiêng xã Ia Ka được mời đi biểu diễn nhiều nơi trong cả nước; 72% số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, 84% số thôn, làng, tổ dân phố đạt danh hiệu thôn, làng, tổ dân phố văn hóa; 100% thôn, làng xây dựng hương án; đơn vị văn hóa đạt 95%. tỷ lệ hộ nghèo hiện nay là 17,68% (theo tiêu chí hiện hành. Làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,2%; tỷ lệ hộ nghèo hiện tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 23%, bình quân có 5 bác sĩ/vạn dân, 14/15 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Hoạt động thương mại, dịch vụ có nhiều khởi sắc, trọng tâm là quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn, đầu tư xây dựng kiên cố các chợ tại các xã: Nghĩa Hưng, Hòa Phú, Ia Nhin, Ia Ly và thị trấn Phú. Vẽ tranh; Chợ thị trấn Phú Hòa bước đầu hình thành trung tâm thương mại trong toàn huyện đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn. Tiềm năng du lịch bước đầu được chú trọng quy hoạch và khai thác. Dịch vụ ngân hàng, bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển, thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng được mở rộng, việc trao đổi, mua bán nông sản, cung ứng vật tư, nguyên liệu được cải thiện. nhiên liệu, thực phẩm thiết yếu đáp ứng ngày càng đa dạng.
Thu ngân sách địa phương năm sau cao hơn năm trước, trong đó thu ngân sách được phân cấp hàng năm đều tăng, đảm bảo cân đối 25% tổng chi thường xuyên của huyện.
Về quốc phòng an ninh, trong bối cảnh dân số tăng nhanh, thành phần dân cư ngày càng phức tạp, huyện đã thực hiện nhiều giải pháp từng bước kiềm chế tội phạm hình sự, tỷ lệ tội phạm gia tăng, lực lượng vũ trang huyện luôn được tăng cường về chất và lượng. . Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị cơ bản được giữ vững, cô lập, vô hiệu hóa hoạt động của bọn phản động Fulro, Tin lành. “Đêga”; đảm bảo an ninh nông thôn, an ninh tư tưởng, an ninh tôn giáo được quan tâm; hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, kiện toàn; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền từ huyện đến cơ sở có nhiều tiến bộ, đã đổi mới lề lối, quy trình làm việc, bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và thực thi công vụ. công tác hành chính một số lĩnh vực cho tổ chức, công dân theo cơ chế “Một cánh cửa điện tử” trong huyện.
Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực; Quan tâm, chú trọng công tác phát triển đảng viên, nhất là kết nạp đảng viên ở thôn, làng, tổ dân phố, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng viên là người có đạo, đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân. ; Đến nay, Đảng bộ huyện có 52 tổ chức cơ sở đảng (gồm 19 đảng bộ, 33 chi bộ, 211 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở).
Mặt trận và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở tập trung tuyên truyền, nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, toàn dân tham gia bảo tồn. An ninh quốc gia. Đẩy mạnh công tác kết nạp hội viên, đoàn viên, hội viên. Tập trung tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân, vận động nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Giai đoạn 2015 – 2020, toàn huyện phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 13% trở lên; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; huy động các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo; quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #ChưPăh
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện ChưPăh bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #ChưPăh
Trả lời