Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh
Là một huyện nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh, tới năm 2005, huyện Cao Lãnh có diện tích tự nhiên 491 km2 với 204.571 nhân khẩu (mật độ 417 người/km2). Phía Bắc giáp huyện Tháp Mười và Tam Nông, phía Nam giáp huyện Châu Thành và thị xã Sa Đéc, phía Đông giáp huyện Tháp Mười và Cái Bè (Tiền Giang), phía Tây giáp huyện Thanh Bình và thị xã Cao Lãnh.
Ranh giới hiện thời của huyện được xác lập vào năm 1983, lúc tách huyện và upgrade thị trấn Cao Lãnh lên thành thị xã. Huyện Cao Lãnh nằm trải dài theo quốc lộ 30 vào sông Tiền, thuộc vạt đất ven sông xung quanh phía Tây của Đồng Tháp Mười với sông, rạch, kinh, mương dằng dịt rất thuận tiện cho việc tăng trưởng nông nghiệp và lưu thông thương nghiệp từ lúc quốc lộ 30 được upgrade, xe pháo lưu thông với vận tốc cao từ ngã ba An Hữu tới Hồng Ngự.
Các tài liệu còn lại tới nay chưa đủ để xác định thời khắc cụ thể nhưng các nhóm lưu dân người Việt ngừng chân lập nghiệp trên vùng đất này. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định được rằng, lúc Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), xác lập chủ quyền của người Việt Nam trên vùng đất mới, lập ra hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, thì huyện Tân Bình trải dài tới tận sông Tiền, tức là bao gồm cả vùng Cao Lãnh. Đất Gia Định quá rộng, để quản lý có hiệu quả hơn, năm 1732, chúa Nguyễn lấy đất phía nam Phiên Trấn, tức vùng đất ven sông Tiền làm châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ, lỵ sở đặt tại Cái Bè, nên thường được gọi là Cái Bè dinh. Năm 1772, chúa Nguyễn Phước Thuần thấy “xứ Mỹ Tho” đã định hình, nên cho thành lập đạo Trường Đồn. Tới tháng 11 năm 1779, lại thấy đạo Trường Đồn quá rộng lại nằm ở chỗ trọng yếu của ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ, nên cho upgrade đạo Trường Đồn lên thành dinh Trường Đồn gồm một huyện là Kiến Khương với ba tổng. Địa bàn huyện Cao Lãnh ngày nay nằm trong tổng Kiến Đăng. Năm Gia Long thứ 5 (1806), dinh Trường Đồn đổi thành trấn Định Tường với một phủ, ba huyện và sáu tổng, địa giới huyện Cao Lãnh nằm trong tổng Kiến Phong (huyện Kiến Đăng). Theo Gia Định thành thông chí thì tổng Kiến Phong bao gồm toàn thể vùng Đồng Tháp Mười, có tất cả 43 thôn; trong đó có 11 thôn nằm trên địa giới huyện Cao Lãnh:
1- Mỹ An Đông 2- Mỹ An Tây 3- Mỹ Long 4- Bình Hàng Trung 5- Bình Hàng Tây 6- Mỹ Lộc | 7- Mỹ Toàn 8- Mỹ Xương 9- Mỹ Định 10-Mỹ Dão 11- An Bình |
Trong cuộc đo đạc địa chính năm 1836 để lập địa bạ Nam Kỳ, trên khu vực huyện Cao Lãnh còn lại 10 thôn, vì hai thôn Mỹ Định và Mỹ Lộc nhập lại thành thôn Nhị Mỹ.
Tới năm 1838, phần đất phía thượng lưu sông Tiền tài huyện Kiến Đăng được tách ra để lập huyện Kiến Phong. Địa bàn huyện Cao Lãnh ngày nay cũng gồm 10 thôn như cũ nằm trong tổng Phong Phú (7 thôn) và Phong Thạnh (3 thôn: Mỹ Đão, Nhị Mỹ và An Bình) của huyện Kiến Phong.
Trong thời Pháp thuộc, từ tháng 6 năm 1865 tới năm 1876 địa bàn huyện Cao Lãnh thuộc quyền quản lý của khu tham tá Cần Lố; trong thời kì này, thôn Mỹ Toàn đổi tên thành Mỹ Hội. Từ năm 1876 tới năm 1899, thuộc khu tham tá Tân Thành (Sa Đéc) và từ năm 1900, khu tham tá Sa Đéc trở thành tỉnh Sa Đéc, địa bàn huyện Cao Lãnh gồm có 13 làng, thuộc tổng Phong Nẫm và hai làng của tổng Phong Thạnh:
– Tổng Phong Nẫm có 11 làng: Mỹ An Đông, Mỹ Hiệp, Mỹ Long, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Hội, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Thọ, An Bình…
– Tổng Phong Thạnh có 6 làng: trong đó hai làng Mỹ Thạnh, Nhị Mỹ thuộc huyện Cao Lãnh.
Nghị định ngày 10-12-1913 thành lập quận Cao Lãnh gồm ba tổng với 19 làng:
– Tổng Phong Thạnh có 6 làng: Mỹ Trà, Mỹ Ngãi, Tân An, Phong Mỹ, Nhị Mỹ, Mỹ Thạnh.
– Tổng An Tịnh có 4 làng: Hòa An, Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận.
– Tổng An Thạnh Thượng có 8 làng: Hội An, Hội An Đông, Hội An Thượng, Mỹ An, Mỹ Hưng, Tân Mỹ, Tòng Sơn.
Danh tức là một quận của tỉnh Sa Đéc, nhưng trên thực tiễn Cao Lãnh chỉ là một “đồn hành chính” (Postl Administratif), phải tới nghị định ngày 23-9-1925 Cao Lãnh mới được chính thức upgrade lên thành quận với một “đại lý hành chính” (Délégation Administrative) và quận Cao Lãnh gồm ba tổng; Phong Thạnh (có 6 làng như trước), An Tịnh (có 5 làng do Tân Thuận tách ra thành Tân Thuận Tây và Tân Thuận Đông) và Phong Nẫm (tổng An Thạnh Thượng trả về quận Châu Thành), tổng Phong Nẫm có 9 làng; Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Hội, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Thọ. Địa giới này giữ nguyên cho tới hết thời Pháp thuộc. Trong đó huyện Cao Lãnh ngày nay chỉ chiếm 12 làng, gồm 9 làng của tổng Phong Nẫm và ba làng An Bình, Nhị Mỹ và Phong Mỹ của tổng Phong Thạnh.
Tới tháng 10 năm 1956, chính quyền Ngô đình Diệm thành lập tỉnh Kiến Phong gồm có 6 quận. Trong đó:
– Quận Cao Lãnh có 12 xã: Nhị Mỹ, Mỹ Thiện, An Bình, Mỹ Ngãi, Tân An, Phong Mỹ, Hòa An, Tân thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân tịch, Tịnh Thới và Mỹ Trà.
– Quận Kiến Văn có 7 xã: Bình Hàng Tây, Bình Hàng Trung, Mỹ Thọ, Mỹ Xương, Mỹ Hội, Long Hiệp, Mỹ Thiện.
Theo đó, thì từ cuối năm 1956 tới năm 1975, địa bàn huyện Cao Lãnh bao gồm quận Kiến Văn và các xã Nhị Mỹ, Mỹ Thiện, An Bình, Phong Mỹ và một phần của hai xã Mỹ Ngãi và Tân An thuộc quận Cao Lãnh .
Từ năm 1975 tới năm 1983, huyện Cao Lãnh rất rộng, bao gồm địa bàn huyện Cao Lãnh hiện nay, huyện Tháp Mười và luôn cả thị xã Cao Lãnh ngày nay. Hiện nay huyện Cao Lãnh có 17 xã và một thị trấn: Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Tân Hội Trung (mới lập vào tháng 6 năm 1989), Mỹ Hội, Mỹ Xương, Mỹ Thọ, An Bình, Nhị Mỹ, Phương Trà, Phương Thịnh, Phong Mỹ, Ba Sao, Tân Nghĩa, Gáo Giồng và Thị trấn Mỹ Thọ.
Theo tộc phả của một số họ ngụ cư lâu đời trong vùng như tộc phả họ Phạm ở Mỹ Xương, họ Trần ở Mỹ Long.. và sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì huyện Cao Lãnh là một trong các khu vực được khai phá khá sớm vào cuối thế kỷ 17, tiếp theo sau vùng đất Ba Giồng (Cái Bè, Cai Lậy của Tiền Giang). Do vị trí nằm ở ven sông Tiền, lại có nhiều rạch ăn thông với con sông cái này; thêm vào đó, tới năm 1790, trục đường thiên lý phía Nam (qua nhiều lần cải tạo, upgrade, nay là quốc lộ 1 và quốc lộ 30) được đắp song song với sông Tiền, nên kinh tế hàng hóa trong khu vực có điều kiện sớm tăng trưởng, chủ yếu là khai thác cá. Sắc phong Đại càn Quốc gia Nam hải tứ vị tôn thần được cấp đồng thời với sắc Bổn cảnh thành hoàng có ở hồ hết các xã thôn trong khu vực, thậm chí có nơi lập miếu thờ riêng như miếu Đại Càn ở xã Mỹ Xương cho thấy trước đây nghề cá là sinh hoạt chính và hàng năm các thôn làng còn có lệ cúng cầu ngư. Chùa Bửu Lâm (cái Bèo), còn gọi là chùa tổ ở Bình Hàng Trung được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 là một chứng cứ của công cuộc khai phá sớm này. Cho tới cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, phần lớn cư dân vẫn còn trú ngụ chủ yếu ở ven sông Tiền. Mạng lưới sông rạch tự nhiên dằng dịt với các rạch: Bà Dư, Xẻo Quít, Ông Cùng (Cũng), Xẻo Muốn, Cái Bát, Cái Sậy, Cái Bèo, rạch Chùa, Tân Trường, Mương Khai, Ngã Bát, Đường Gỗ, Cần Lố, Trà Bông, Mương Trâu, Xẻo Sình, Bà Mụ, Cái Ngừng, Cái Môn, Ba Sao, Mỹ Ngãi, Cái Bí, Trâu Trắng… liên kết với hàng loạt kinh đào dưới thời Pháp thuộc và thời Ngô Đình Diệm đã tạo nên mạng lưới tưới tiêu, giao thông khá tiện lợi, thu hút nông dân tiến vào khai phá vùng sâu trong Đồng Tháp Mười. Dưới thời Pháp thuộc đại bộ phận ruộng đất đều nằm trong tay các đại điền chủ như: Đỗ thị Đệ, Nguyễn Thị Phước, Lê Quang Hiển, Nguyễn Tấn Dược, Trương Văn Bền, Bá Hộ Kiệu, Doseil (nông dân gọi là Đô-Sơn), Thomassini… Các điền chủ này khôn khéo chiêu dụ nông dân đào kinh, khai mương, cho vay lúa, vay tiền, lập chợ, đắp đường…Nông dân vì chén cơm manh áo đã chăm chỉ khó khăn khai phá; biến đồng hoang đầy lau, sậy, tràm… thành ruộng vườn xanh tươi làm cho lẩm lúa của các điền chủ đầy ắp có lúc tới hàng nghìn giạ, trong lúc đó nông dân trực tiếp canh tác khổ cực phải chạy gạo từng bữa.
Sau ngày quốc gia thống nhất, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Vì chủ quan và nóng vội trong việc thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp, nên đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên sau Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nhờ được từng bước xác nhận quyền sử dụng đất trong khoảng thời gian dài, nông dân đã phấn khởi đầu tư sản xuất, liên kết với hệ thông thủy lợi do nhà nước đầu tư và vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất… sản lượng tính theo đầu người vào năm 1985 chỉ đạt 412,75 kg; năm 1990 tăng lên tới 1.293,15 kg và tới năm 1995 đạt 1.526 kg.Tương tự chỉ trong vòng mười năm sản lượng lúa tính theo đầu người tăng hơn ba lần.
Là một vùng được khai phá, mở rộng tương đối sớm, nhưng do địa hình ko đồng đều, nên trong huyện đã tạo nên hai vùng với những đặc điểm không giống nhau về phân bổ cư dân cũng như về sinh hoạt kinh tế xã hội. Phía Tây Nam huyện (tức vùng ven sông Tiền) đất tương đối cao, lại phì nhiêu. Đây là vùng có người tới ngụ cư sớm, cư dân đông đúc. Du khách đi sâu vào thôn xóm dễ nhận thấy cư dân ở đây có mức sống khá cao, đời sống ổn định, nhà cửa khang trang. Hiện nay, nơi đây không những là vùng canh tác lúa cao sản, nhưng còn là vùng trồng cây ăn trái với diện tích lên tới 1.562 ha và cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu…Còn phần đất phía đông bắc huyện thuộc một số xã nằm sâu trong Đồng Tháp Mười, đất thấp, lại nhiễm phèn nặng, cư dân thưa thớt, đời sống còn nhiều khó khăn. Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, nơi đây là vùng căn cứ cách mệnh, chịu nhiều sự tàn phá của bom đạn, quần chúng chịu nhiều hy sinh, mất mát về người và của. Nếu khắc phục tốt vấn đề thủy lợi, giao thông nông thôn và trợ vốn cho sản xuất…gương mặt nông thôn sẽ khá hơn và hàng năm sẽ thu hoạch thêm một số lượng nông sản hàng hóa ko nhỏ.
Do địa thế gối đầu với đất Ba Giồng (Tiền Giang), lại có sông Tiền, án ngữ phía nam, nên trong thời đoạn tranh chấp Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1776-1788), huyện Cao Lãnh là địa bàn trú ẩn, đi lại hoạt động của Nguyễn Ánh trên tuyến đường từ Sài gòn xuống đồng bằng sông Cửu Long thông ra vịnh Thái Lan, tới đảo Phú Quốc. Liên kết với các thôn Long Hưng, Long Hậu, Long Hòa, Long Thắng…(của hai huyện Lai Vung, Lấp Vò) vùng này trở thành hậu cứ vững chắc của Nguyễn Ánh với nhiều lúa gạo nhưng một số điền chủ ở đây sẵn sàng ủng hộ. Thực tiễn này đã góp phần ko nhỏ trong công cuộc khôi phục thế lực phong kiến của họ Nguyễn vào cuối thế kỷ 18 ở Nam Kỳ.
Chính vì vị trí chiến lược đó, nên ngay sau lúc chọn Tháp Mười làm căn cứ (tháng Tám năm 1864), Thiên hộ Võ duy Dương đã cho lập một tiền đồn kiên cố tại vàm Cần Lố, tục danh là Doi Me, gọi là đồn Doi để vừa bảo vệ trục đường tiếp tế từ các tỉnh miền Tây qua ngã Cần Lố vào Gò Tháp, vừa bảo vệ căn cứ từ xa. Nhân dân trong vùng không những góp của góp công tranh đấu bảo vệ đồn, nhưng còn hỗ trợ cho nghĩa quân nhiều chỉ huy xuất sắc, can trường, nhưng tới nay người đời còn nhắc như Phòng Biểu (Nguyễn Văn Biểu ở Mỹ Thọ) Lãnh binh Miên (tức Trương Tấn Minh) ở An Bình, quản Võ ở Phong Mỹ…Chùa Bửu Lâm (Bình Hàng Trung) là một vị trí nghĩa quân thường tới lui trên đường hành quân.
Để thực hiện đàn áp nghĩa quân Thiên Hộ Dương ở Tháp Mười, trước hết thực dân Pháp tấn công chiếm đồn Doi và đóng trụ sở tham tá (khu thanh tra) Cần Lố tại đây. Cần Lố là một trung tâm cư dân được tạo nên từ thế kỷ trước; lúc bấy giờ, nó là địa bàn trung chuyển nhận lưu dân mới tới tiến vào khai hoang Đồng Tháp Mười. Vàm Cần Lố là nơi gặp nhau của sông Cần Lố và rạch Cái Sao Thượng trước lúc đổ nước vào sông Tiền; nơi đây có một doi đất mũi nhọn hình tam giác nhô ra sông Tiền, với nhiều cây me cổ thụ um tùm, nên từ lâu có tên là Doi Me. Để củng cố khu tham tá Cần Lố, một cửa ngõ vào Đồng Tháp Mười, thực dân Pháp cho đào một con kinh nhỏ tách rời mõm doi với lục địa và cho xây dựng ở mõm doi một hệ thống đồn lũy kiên cố với kích thước 44 x 48,50m[3]. Tham tá Cần Lố vào vai trò quan trọng trong việc đàn sức ép lượng kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Lúc căn cứ Tháp Mười tan rã, nghĩa quân Thiên Hộ Dương còn hoạt động một thời kì ở các thôn Mỹ Xương, Bình Hàng Trung, Mỹ Thọ, Ba Sao, Phong Mỹ dưới quyền chỉ huy của Lãnh Binh Cẩn (Nguyễn Văn Cẩn), Phòng Biểu (Nguyễn Văn Biểu)…
Vào đầu thế kỷ 20, phong trào Đông Du tăng trưởng mạnh, ở Cao Lãnh có nhiều thanh niên xuất dương sang Nhật du học như Nguyễn Tôn Nhơn ở An Bình, Đinh Hữu Thuật ở Mỹ Xương… ngoài ra còn có nhiều gia đình bỏ tiền ra tài trợ, bỏ công đi động viên phong trào.
Cao Lãnh cũng là nơi có cơ sở Đảng khá sớm, năm 1930, chi bộ Phong Mỹ, Mỹ Thọ, liên chi bộ An Bình-Nhị Mỹ…tuần tự ra đời, cùng với chi bộ Hòa An và các chi bộ ở tổng Phong Thạnh Thượng lãnh đạo nhân dân khu vực phía Bắc sông Tiền tài tỉnh bước vào thời đoạn đấu tranh mới để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp khỏi giai cấp thống trị của thực dân phong kiến. Những người cộng sản huyện Cao Lãnh cùng với nông dân trong huyện có mặt trong các buổi đấu tranh, biểu tình đòi dân sinh, dân chủ trong những năm 1930 ở Đồng Tháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng sâu của các xã Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Thọ…là những khu căn cứ vững chắc của tỉnh, của huyện và của một số tỉnh bạn; nhiều cơ quan của Sài Gòn, Chợ Lớn của miền cũng đóng ở đây. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa Bửu Lâm (Bình Hàng Trung) là nơi đóng trụ sở của một số cơ quan của tỉnh, huyện (Ủy ban KCHC, Công an…) của Nam Bộ (Hội Phật Giáo Cứu quốc). Trong những năm 60, tỉnh ủy Kiến Phong nhường căn cứ Tam Thường (Hồng Ngự) cho Khu, về củng cố và trụ lại ở căn cứ Xẻo Quít (Mỹ Hiệp) cho tới năm 1975, còn huyện ủy Cao Lãnh về đóng ở Tràm Dơi (Mỹ Thọ). Người dân Cao Lãnh rất tự hào vì đã góp phần công sức, tiền tài và cả xương máu vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Là vùng đất được khai phá tương đối sớm; song song với quá trình khai hoang lập làng, mỗi thôn đều có một ngôi đình lớn nhỏ không giống nhau tùy theo khả năng tài chính của mỗi thôn. Qua nhiều lần tách, nhập, lập làng xã mới và do chiến tranh tàn phá, tới nay toàn huyện Cao Lãnh chỉ còn 12 ngôi đình; tất cả đều có sắc phong. Toàn thể đều là sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng có từ 6 tới 8 mỹ tự (Kiểm soát an ninh, Cương trực, Hựu thiện, Đôn Ngưng Chi Thần), được gia phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1852); tuy nhiên có một số thôn được cấp sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần. Riêng thôn Mỹ Hội (trước là Mỹ Toàn), sắc Đại Càn được gia phong lần thứ tư (năm Tự Đức thứ 15, 1861), đặt danh hiệu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải hàm hoàng Quang, Đại Chi Đức, Phổ Bác, Hiển Hóa, Trang huy tứ vị thượng đẳng thần. Mỹ Hội cũng là thôn hiện nay còn lưu giữ được 6 lá sắc (ba cấp cho Bổn cảnh thành hoàng, ba cấp cho thần Đại càn). Điều đó cho thấy trước đây hàng năm các thôn ngoài lệ cúng hạ điền (vào tháng 4 hoặc tháng 5 âm lịch) và lệ cúng thượng điền (vào tháng 11 hoặc 12) như các nơi khác, còn có tục cúng cầu ngư vào mùa nước rút (vào tháng 10). Hiện nay trong huyện có hai chùa Ông (dạng miếu thờ Quan Công), 13 miếu bà Chúa Xứ, một miếu Đại Càn, một miếu Hội (thờ liệt sỹ chống Pháp), một miếu Ông (thờ Cọp)… Ở thị trấn Mỹ Thọ, sát quốc lộ 30, nghĩa trang liệt sỹ huyện qui tập hài cốt các liệt sỹ đã hy sinh trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp chống Mỹ và các liệt sỹ hy sinh trong tranh đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của tổ quốc để nhân dân có điều kiện viếng thăm tưởng vọng. Một số xã lập nhà bia kế bên trụ sở Ủy ban nhân dân xã, ghi tên các người hùng liệt sỹ trong xã. Xẻo Quít, căn cứ tỉnh ủy ở Mỹ Hiệp được trùng tu phục chế, tu tạo không những trở thành một vị trí du lịch thu hút nhiều khách thăm quan trong và ngoài nước nhưng còn có tác dụng giáo dục truyền thống, nhắc nhở ý thức uống nước nhớ nguồn đối với lớp trẻ.
Hiện nay trong huyện có 3.383 hộ có đạo, gồm 8.686 người chiếm 4,95% dân số của huyện; chia ra:
– Đạo Cao Đài: 3.351 tín đồ,
– Đạo Phật : 3.143 tín đồ,
– Đạo Thiên Chúa : 1.121 tín đồ,
– Đạo Hòa Hảo : 673 tín đồ,
– Đạo Tin Lành : 398 tín đồ.
(Nguồn: Thực trạng Tôn giáo tôn giáo Đồng Tháp năm 1995).
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quốc gia thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Cao Lãnh đã có nhiều nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Quốc lộ 30 được upgrade, xe pháo lưu thông qua phần lớn các xã trong huyện; hình ảnh gây ấn tượng với du khách là mỗi xã đều có trường tiểu học, trạm y tế khang trang được xây dựng theo một sơ đồ thiết kế thống nhất; mười xã có trường trung học cơ sở, riêng xã Mỹ Long và thị trấn Mỹ Thọ có trường phổ thông trung học. Trong năm học (2004-2005) toàn huyện có 52 trường, chia ra: tiểu học (32) , trung học cơ sở (16), phổ thông trung học(4), với 38.878 học trò; trong đó cấp tiểu học có 18.160 học trò, cấp trung học cơ sở có 15.988 học trò, cấp trung học phổ thông có 4.724 học trò. Số thầy cô giáo là 1.562 thầy cô, trong đó số thầy cô giáo cấp tiểu học là 782, cấp trung học cơ sở là 586 và cấp trung học phổ thông là 194. Riêng cấp mẫu giáo có 138 thầy cô giáo.
Ngoài ra, còn có một trường bán công; trong huyện có 3480 học trò cấp mẫu giáo. Về y tế, có 18 trạm y tế xã với 96 giường, một bệnh viện đa khoa với 70 giường bệnh và một phòng khám khu vực với 10 giường
Các xã đều có chợ giao thương tấp nập, đặc thù là chợ thị trấn Mỹ Thọ, được dời từ chợ Doi Me cũ ra ngã ba rạch Ông Bầu, sát quốc lộ 30, thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa đường bộ lẫn đường thủy.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Giới thiệu khái quát huyện Cao Lãnh” state=”close”]
Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh
Hình Ảnh về: Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh
Video về: Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh
Wiki về Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh
Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh -
Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh
Là một huyện nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh, tới năm 2005, huyện Cao Lãnh có diện tích tự nhiên 491 km2 với 204.571 nhân khẩu (mật độ 417 người/km2). Phía Bắc giáp huyện Tháp Mười và Tam Nông, phía Nam giáp huyện Châu Thành và thị xã Sa Đéc, phía Đông giáp huyện Tháp Mười và Cái Bè (Tiền Giang), phía Tây giáp huyện Thanh Bình và thị xã Cao Lãnh.
Ranh giới hiện thời của huyện được xác lập vào năm 1983, lúc tách huyện và upgrade thị trấn Cao Lãnh lên thành thị xã. Huyện Cao Lãnh nằm trải dài theo quốc lộ 30 vào sông Tiền, thuộc vạt đất ven sông xung quanh phía Tây của Đồng Tháp Mười với sông, rạch, kinh, mương dằng dịt rất thuận tiện cho việc tăng trưởng nông nghiệp và lưu thông thương nghiệp từ lúc quốc lộ 30 được upgrade, xe pháo lưu thông với vận tốc cao từ ngã ba An Hữu tới Hồng Ngự.
Các tài liệu còn lại tới nay chưa đủ để xác định thời khắc cụ thể nhưng các nhóm lưu dân người Việt ngừng chân lập nghiệp trên vùng đất này. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định được rằng, lúc Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), xác lập chủ quyền của người Việt Nam trên vùng đất mới, lập ra hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, thì huyện Tân Bình trải dài tới tận sông Tiền, tức là bao gồm cả vùng Cao Lãnh. Đất Gia Định quá rộng, để quản lý có hiệu quả hơn, năm 1732, chúa Nguyễn lấy đất phía nam Phiên Trấn, tức vùng đất ven sông Tiền làm châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ, lỵ sở đặt tại Cái Bè, nên thường được gọi là Cái Bè dinh. Năm 1772, chúa Nguyễn Phước Thuần thấy “xứ Mỹ Tho” đã định hình, nên cho thành lập đạo Trường Đồn. Tới tháng 11 năm 1779, lại thấy đạo Trường Đồn quá rộng lại nằm ở chỗ trọng yếu của ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ, nên cho upgrade đạo Trường Đồn lên thành dinh Trường Đồn gồm một huyện là Kiến Khương với ba tổng. Địa bàn huyện Cao Lãnh ngày nay nằm trong tổng Kiến Đăng. Năm Gia Long thứ 5 (1806), dinh Trường Đồn đổi thành trấn Định Tường với một phủ, ba huyện và sáu tổng, địa giới huyện Cao Lãnh nằm trong tổng Kiến Phong (huyện Kiến Đăng). Theo Gia Định thành thông chí thì tổng Kiến Phong bao gồm toàn thể vùng Đồng Tháp Mười, có tất cả 43 thôn; trong đó có 11 thôn nằm trên địa giới huyện Cao Lãnh:
1- Mỹ An Đông 2- Mỹ An Tây 3- Mỹ Long 4- Bình Hàng Trung 5- Bình Hàng Tây 6- Mỹ Lộc | 7- Mỹ Toàn 8- Mỹ Xương 9- Mỹ Định 10-Mỹ Dão 11- An Bình |
Trong cuộc đo đạc địa chính năm 1836 để lập địa bạ Nam Kỳ, trên khu vực huyện Cao Lãnh còn lại 10 thôn, vì hai thôn Mỹ Định và Mỹ Lộc nhập lại thành thôn Nhị Mỹ.
Tới năm 1838, phần đất phía thượng lưu sông Tiền tài huyện Kiến Đăng được tách ra để lập huyện Kiến Phong. Địa bàn huyện Cao Lãnh ngày nay cũng gồm 10 thôn như cũ nằm trong tổng Phong Phú (7 thôn) và Phong Thạnh (3 thôn: Mỹ Đão, Nhị Mỹ và An Bình) của huyện Kiến Phong.
Trong thời Pháp thuộc, từ tháng 6 năm 1865 tới năm 1876 địa bàn huyện Cao Lãnh thuộc quyền quản lý của khu tham tá Cần Lố; trong thời kì này, thôn Mỹ Toàn đổi tên thành Mỹ Hội. Từ năm 1876 tới năm 1899, thuộc khu tham tá Tân Thành (Sa Đéc) và từ năm 1900, khu tham tá Sa Đéc trở thành tỉnh Sa Đéc, địa bàn huyện Cao Lãnh gồm có 13 làng, thuộc tổng Phong Nẫm và hai làng của tổng Phong Thạnh:
– Tổng Phong Nẫm có 11 làng: Mỹ An Đông, Mỹ Hiệp, Mỹ Long, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Hội, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Thọ, An Bình…
– Tổng Phong Thạnh có 6 làng: trong đó hai làng Mỹ Thạnh, Nhị Mỹ thuộc huyện Cao Lãnh.
Nghị định ngày 10-12-1913 thành lập quận Cao Lãnh gồm ba tổng với 19 làng:
– Tổng Phong Thạnh có 6 làng: Mỹ Trà, Mỹ Ngãi, Tân An, Phong Mỹ, Nhị Mỹ, Mỹ Thạnh.
– Tổng An Tịnh có 4 làng: Hòa An, Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận.
– Tổng An Thạnh Thượng có 8 làng: Hội An, Hội An Đông, Hội An Thượng, Mỹ An, Mỹ Hưng, Tân Mỹ, Tòng Sơn.
Danh tức là một quận của tỉnh Sa Đéc, nhưng trên thực tiễn Cao Lãnh chỉ là một “đồn hành chính” (Postl Administratif), phải tới nghị định ngày 23-9-1925 Cao Lãnh mới được chính thức upgrade lên thành quận với một “đại lý hành chính” (Délégation Administrative) và quận Cao Lãnh gồm ba tổng; Phong Thạnh (có 6 làng như trước), An Tịnh (có 5 làng do Tân Thuận tách ra thành Tân Thuận Tây và Tân Thuận Đông) và Phong Nẫm (tổng An Thạnh Thượng trả về quận Châu Thành), tổng Phong Nẫm có 9 làng; Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Hội, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Thọ. Địa giới này giữ nguyên cho tới hết thời Pháp thuộc. Trong đó huyện Cao Lãnh ngày nay chỉ chiếm 12 làng, gồm 9 làng của tổng Phong Nẫm và ba làng An Bình, Nhị Mỹ và Phong Mỹ của tổng Phong Thạnh.
Tới tháng 10 năm 1956, chính quyền Ngô đình Diệm thành lập tỉnh Kiến Phong gồm có 6 quận. Trong đó:
– Quận Cao Lãnh có 12 xã: Nhị Mỹ, Mỹ Thiện, An Bình, Mỹ Ngãi, Tân An, Phong Mỹ, Hòa An, Tân thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân tịch, Tịnh Thới và Mỹ Trà.
– Quận Kiến Văn có 7 xã: Bình Hàng Tây, Bình Hàng Trung, Mỹ Thọ, Mỹ Xương, Mỹ Hội, Long Hiệp, Mỹ Thiện.
Theo đó, thì từ cuối năm 1956 tới năm 1975, địa bàn huyện Cao Lãnh bao gồm quận Kiến Văn và các xã Nhị Mỹ, Mỹ Thiện, An Bình, Phong Mỹ và một phần của hai xã Mỹ Ngãi và Tân An thuộc quận Cao Lãnh .
Từ năm 1975 tới năm 1983, huyện Cao Lãnh rất rộng, bao gồm địa bàn huyện Cao Lãnh hiện nay, huyện Tháp Mười và luôn cả thị xã Cao Lãnh ngày nay. Hiện nay huyện Cao Lãnh có 17 xã và một thị trấn: Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Tân Hội Trung (mới lập vào tháng 6 năm 1989), Mỹ Hội, Mỹ Xương, Mỹ Thọ, An Bình, Nhị Mỹ, Phương Trà, Phương Thịnh, Phong Mỹ, Ba Sao, Tân Nghĩa, Gáo Giồng và Thị trấn Mỹ Thọ.
Theo tộc phả của một số họ ngụ cư lâu đời trong vùng như tộc phả họ Phạm ở Mỹ Xương, họ Trần ở Mỹ Long.. và sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì huyện Cao Lãnh là một trong các khu vực được khai phá khá sớm vào cuối thế kỷ 17, tiếp theo sau vùng đất Ba Giồng (Cái Bè, Cai Lậy của Tiền Giang). Do vị trí nằm ở ven sông Tiền, lại có nhiều rạch ăn thông với con sông cái này; thêm vào đó, tới năm 1790, trục đường thiên lý phía Nam (qua nhiều lần cải tạo, upgrade, nay là quốc lộ 1 và quốc lộ 30) được đắp song song với sông Tiền, nên kinh tế hàng hóa trong khu vực có điều kiện sớm tăng trưởng, chủ yếu là khai thác cá. Sắc phong Đại càn Quốc gia Nam hải tứ vị tôn thần được cấp đồng thời với sắc Bổn cảnh thành hoàng có ở hồ hết các xã thôn trong khu vực, thậm chí có nơi lập miếu thờ riêng như miếu Đại Càn ở xã Mỹ Xương cho thấy trước đây nghề cá là sinh hoạt chính và hàng năm các thôn làng còn có lệ cúng cầu ngư. Chùa Bửu Lâm (cái Bèo), còn gọi là chùa tổ ở Bình Hàng Trung được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 là một chứng cứ của công cuộc khai phá sớm này. Cho tới cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, phần lớn cư dân vẫn còn trú ngụ chủ yếu ở ven sông Tiền. Mạng lưới sông rạch tự nhiên dằng dịt với các rạch: Bà Dư, Xẻo Quít, Ông Cùng (Cũng), Xẻo Muốn, Cái Bát, Cái Sậy, Cái Bèo, rạch Chùa, Tân Trường, Mương Khai, Ngã Bát, Đường Gỗ, Cần Lố, Trà Bông, Mương Trâu, Xẻo Sình, Bà Mụ, Cái Ngừng, Cái Môn, Ba Sao, Mỹ Ngãi, Cái Bí, Trâu Trắng… liên kết với hàng loạt kinh đào dưới thời Pháp thuộc và thời Ngô Đình Diệm đã tạo nên mạng lưới tưới tiêu, giao thông khá tiện lợi, thu hút nông dân tiến vào khai phá vùng sâu trong Đồng Tháp Mười. Dưới thời Pháp thuộc đại bộ phận ruộng đất đều nằm trong tay các đại điền chủ như: Đỗ thị Đệ, Nguyễn Thị Phước, Lê Quang Hiển, Nguyễn Tấn Dược, Trương Văn Bền, Bá Hộ Kiệu, Doseil (nông dân gọi là Đô-Sơn), Thomassini… Các điền chủ này khôn khéo chiêu dụ nông dân đào kinh, khai mương, cho vay lúa, vay tiền, lập chợ, đắp đường…Nông dân vì chén cơm manh áo đã chăm chỉ khó khăn khai phá; biến đồng hoang đầy lau, sậy, tràm… thành ruộng vườn xanh tươi làm cho lẩm lúa của các điền chủ đầy ắp có lúc tới hàng nghìn giạ, trong lúc đó nông dân trực tiếp canh tác khổ cực phải chạy gạo từng bữa.
Sau ngày quốc gia thống nhất, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Vì chủ quan và nóng vội trong việc thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp, nên đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên sau Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nhờ được từng bước xác nhận quyền sử dụng đất trong khoảng thời gian dài, nông dân đã phấn khởi đầu tư sản xuất, liên kết với hệ thông thủy lợi do nhà nước đầu tư và vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất… sản lượng tính theo đầu người vào năm 1985 chỉ đạt 412,75 kg; năm 1990 tăng lên tới 1.293,15 kg và tới năm 1995 đạt 1.526 kg.Tương tự chỉ trong vòng mười năm sản lượng lúa tính theo đầu người tăng hơn ba lần.
Là một vùng được khai phá, mở rộng tương đối sớm, nhưng do địa hình ko đồng đều, nên trong huyện đã tạo nên hai vùng với những đặc điểm không giống nhau về phân bổ cư dân cũng như về sinh hoạt kinh tế xã hội. Phía Tây Nam huyện (tức vùng ven sông Tiền) đất tương đối cao, lại phì nhiêu. Đây là vùng có người tới ngụ cư sớm, cư dân đông đúc. Du khách đi sâu vào thôn xóm dễ nhận thấy cư dân ở đây có mức sống khá cao, đời sống ổn định, nhà cửa khang trang. Hiện nay, nơi đây không những là vùng canh tác lúa cao sản, nhưng còn là vùng trồng cây ăn trái với diện tích lên tới 1.562 ha và cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu…Còn phần đất phía đông bắc huyện thuộc một số xã nằm sâu trong Đồng Tháp Mười, đất thấp, lại nhiễm phèn nặng, cư dân thưa thớt, đời sống còn nhiều khó khăn. Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, nơi đây là vùng căn cứ cách mệnh, chịu nhiều sự tàn phá của bom đạn, quần chúng chịu nhiều hy sinh, mất mát về người và của. Nếu khắc phục tốt vấn đề thủy lợi, giao thông nông thôn và trợ vốn cho sản xuất…gương mặt nông thôn sẽ khá hơn và hàng năm sẽ thu hoạch thêm một số lượng nông sản hàng hóa ko nhỏ.
Do địa thế gối đầu với đất Ba Giồng (Tiền Giang), lại có sông Tiền, án ngữ phía nam, nên trong thời đoạn tranh chấp Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1776-1788), huyện Cao Lãnh là địa bàn trú ẩn, đi lại hoạt động của Nguyễn Ánh trên tuyến đường từ Sài gòn xuống đồng bằng sông Cửu Long thông ra vịnh Thái Lan, tới đảo Phú Quốc. Liên kết với các thôn Long Hưng, Long Hậu, Long Hòa, Long Thắng…(của hai huyện Lai Vung, Lấp Vò) vùng này trở thành hậu cứ vững chắc của Nguyễn Ánh với nhiều lúa gạo nhưng một số điền chủ ở đây sẵn sàng ủng hộ. Thực tiễn này đã góp phần ko nhỏ trong công cuộc khôi phục thế lực phong kiến của họ Nguyễn vào cuối thế kỷ 18 ở Nam Kỳ.
Chính vì vị trí chiến lược đó, nên ngay sau lúc chọn Tháp Mười làm căn cứ (tháng Tám năm 1864), Thiên hộ Võ duy Dương đã cho lập một tiền đồn kiên cố tại vàm Cần Lố, tục danh là Doi Me, gọi là đồn Doi để vừa bảo vệ trục đường tiếp tế từ các tỉnh miền Tây qua ngã Cần Lố vào Gò Tháp, vừa bảo vệ căn cứ từ xa. Nhân dân trong vùng không những góp của góp công tranh đấu bảo vệ đồn, nhưng còn hỗ trợ cho nghĩa quân nhiều chỉ huy xuất sắc, can trường, nhưng tới nay người đời còn nhắc như Phòng Biểu (Nguyễn Văn Biểu ở Mỹ Thọ) Lãnh binh Miên (tức Trương Tấn Minh) ở An Bình, quản Võ ở Phong Mỹ…Chùa Bửu Lâm (Bình Hàng Trung) là một vị trí nghĩa quân thường tới lui trên đường hành quân.
Để thực hiện đàn áp nghĩa quân Thiên Hộ Dương ở Tháp Mười, trước hết thực dân Pháp tấn công chiếm đồn Doi và đóng trụ sở tham tá (khu thanh tra) Cần Lố tại đây. Cần Lố là một trung tâm cư dân được tạo nên từ thế kỷ trước; lúc bấy giờ, nó là địa bàn trung chuyển nhận lưu dân mới tới tiến vào khai hoang Đồng Tháp Mười. Vàm Cần Lố là nơi gặp nhau của sông Cần Lố và rạch Cái Sao Thượng trước lúc đổ nước vào sông Tiền; nơi đây có một doi đất mũi nhọn hình tam giác nhô ra sông Tiền, với nhiều cây me cổ thụ um tùm, nên từ lâu có tên là Doi Me. Để củng cố khu tham tá Cần Lố, một cửa ngõ vào Đồng Tháp Mười, thực dân Pháp cho đào một con kinh nhỏ tách rời mõm doi với lục địa và cho xây dựng ở mõm doi một hệ thống đồn lũy kiên cố với kích thước 44 x 48,50m[3]. Tham tá Cần Lố vào vai trò quan trọng trong việc đàn sức ép lượng kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Lúc căn cứ Tháp Mười tan rã, nghĩa quân Thiên Hộ Dương còn hoạt động một thời kì ở các thôn Mỹ Xương, Bình Hàng Trung, Mỹ Thọ, Ba Sao, Phong Mỹ dưới quyền chỉ huy của Lãnh Binh Cẩn (Nguyễn Văn Cẩn), Phòng Biểu (Nguyễn Văn Biểu)…
Vào đầu thế kỷ 20, phong trào Đông Du tăng trưởng mạnh, ở Cao Lãnh có nhiều thanh niên xuất dương sang Nhật du học như Nguyễn Tôn Nhơn ở An Bình, Đinh Hữu Thuật ở Mỹ Xương… ngoài ra còn có nhiều gia đình bỏ tiền ra tài trợ, bỏ công đi động viên phong trào.
Cao Lãnh cũng là nơi có cơ sở Đảng khá sớm, năm 1930, chi bộ Phong Mỹ, Mỹ Thọ, liên chi bộ An Bình-Nhị Mỹ…tuần tự ra đời, cùng với chi bộ Hòa An và các chi bộ ở tổng Phong Thạnh Thượng lãnh đạo nhân dân khu vực phía Bắc sông Tiền tài tỉnh bước vào thời đoạn đấu tranh mới để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp khỏi giai cấp thống trị của thực dân phong kiến. Những người cộng sản huyện Cao Lãnh cùng với nông dân trong huyện có mặt trong các buổi đấu tranh, biểu tình đòi dân sinh, dân chủ trong những năm 1930 ở Đồng Tháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng sâu của các xã Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Thọ…là những khu căn cứ vững chắc của tỉnh, của huyện và của một số tỉnh bạn; nhiều cơ quan của Sài Gòn, Chợ Lớn của miền cũng đóng ở đây. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa Bửu Lâm (Bình Hàng Trung) là nơi đóng trụ sở của một số cơ quan của tỉnh, huyện (Ủy ban KCHC, Công an…) của Nam Bộ (Hội Phật Giáo Cứu quốc). Trong những năm 60, tỉnh ủy Kiến Phong nhường căn cứ Tam Thường (Hồng Ngự) cho Khu, về củng cố và trụ lại ở căn cứ Xẻo Quít (Mỹ Hiệp) cho tới năm 1975, còn huyện ủy Cao Lãnh về đóng ở Tràm Dơi (Mỹ Thọ). Người dân Cao Lãnh rất tự hào vì đã góp phần công sức, tiền tài và cả xương máu vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Là vùng đất được khai phá tương đối sớm; song song với quá trình khai hoang lập làng, mỗi thôn đều có một ngôi đình lớn nhỏ không giống nhau tùy theo khả năng tài chính của mỗi thôn. Qua nhiều lần tách, nhập, lập làng xã mới và do chiến tranh tàn phá, tới nay toàn huyện Cao Lãnh chỉ còn 12 ngôi đình; tất cả đều có sắc phong. Toàn thể đều là sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng có từ 6 tới 8 mỹ tự (Kiểm soát an ninh, Cương trực, Hựu thiện, Đôn Ngưng Chi Thần), được gia phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1852); tuy nhiên có một số thôn được cấp sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần. Riêng thôn Mỹ Hội (trước là Mỹ Toàn), sắc Đại Càn được gia phong lần thứ tư (năm Tự Đức thứ 15, 1861), đặt danh hiệu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải hàm hoàng Quang, Đại Chi Đức, Phổ Bác, Hiển Hóa, Trang huy tứ vị thượng đẳng thần. Mỹ Hội cũng là thôn hiện nay còn lưu giữ được 6 lá sắc (ba cấp cho Bổn cảnh thành hoàng, ba cấp cho thần Đại càn). Điều đó cho thấy trước đây hàng năm các thôn ngoài lệ cúng hạ điền (vào tháng 4 hoặc tháng 5 âm lịch) và lệ cúng thượng điền (vào tháng 11 hoặc 12) như các nơi khác, còn có tục cúng cầu ngư vào mùa nước rút (vào tháng 10). Hiện nay trong huyện có hai chùa Ông (dạng miếu thờ Quan Công), 13 miếu bà Chúa Xứ, một miếu Đại Càn, một miếu Hội (thờ liệt sỹ chống Pháp), một miếu Ông (thờ Cọp)… Ở thị trấn Mỹ Thọ, sát quốc lộ 30, nghĩa trang liệt sỹ huyện qui tập hài cốt các liệt sỹ đã hy sinh trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp chống Mỹ và các liệt sỹ hy sinh trong tranh đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của tổ quốc để nhân dân có điều kiện viếng thăm tưởng vọng. Một số xã lập nhà bia kế bên trụ sở Ủy ban nhân dân xã, ghi tên các người hùng liệt sỹ trong xã. Xẻo Quít, căn cứ tỉnh ủy ở Mỹ Hiệp được trùng tu phục chế, tu tạo không những trở thành một vị trí du lịch thu hút nhiều khách thăm quan trong và ngoài nước nhưng còn có tác dụng giáo dục truyền thống, nhắc nhở ý thức uống nước nhớ nguồn đối với lớp trẻ.
Hiện nay trong huyện có 3.383 hộ có đạo, gồm 8.686 người chiếm 4,95% dân số của huyện; chia ra:
– Đạo Cao Đài: 3.351 tín đồ,
– Đạo Phật : 3.143 tín đồ,
– Đạo Thiên Chúa : 1.121 tín đồ,
– Đạo Hòa Hảo : 673 tín đồ,
– Đạo Tin Lành : 398 tín đồ.
(Nguồn: Thực trạng Tôn giáo tôn giáo Đồng Tháp năm 1995).
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quốc gia thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Cao Lãnh đã có nhiều nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Quốc lộ 30 được upgrade, xe pháo lưu thông qua phần lớn các xã trong huyện; hình ảnh gây ấn tượng với du khách là mỗi xã đều có trường tiểu học, trạm y tế khang trang được xây dựng theo một sơ đồ thiết kế thống nhất; mười xã có trường trung học cơ sở, riêng xã Mỹ Long và thị trấn Mỹ Thọ có trường phổ thông trung học. Trong năm học (2004-2005) toàn huyện có 52 trường, chia ra: tiểu học (32) , trung học cơ sở (16), phổ thông trung học(4), với 38.878 học trò; trong đó cấp tiểu học có 18.160 học trò, cấp trung học cơ sở có 15.988 học trò, cấp trung học phổ thông có 4.724 học trò. Số thầy cô giáo là 1.562 thầy cô, trong đó số thầy cô giáo cấp tiểu học là 782, cấp trung học cơ sở là 586 và cấp trung học phổ thông là 194. Riêng cấp mẫu giáo có 138 thầy cô giáo.
Ngoài ra, còn có một trường bán công; trong huyện có 3480 học trò cấp mẫu giáo. Về y tế, có 18 trạm y tế xã với 96 giường, một bệnh viện đa khoa với 70 giường bệnh và một phòng khám khu vực với 10 giường
Các xã đều có chợ giao thương tấp nập, đặc thù là chợ thị trấn Mỹ Thọ, được dời từ chợ Doi Me cũ ra ngã ba rạch Ông Bầu, sát quốc lộ 30, thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa đường bộ lẫn đường thủy.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 653″ class=”entry-thumb td-modal-image” src=”https://vansudia.net/wp-content/uploads/2019/07/5.jpg” sizes=”(max-width: 653px) 100vw, 653px” alt=”huyện Cao Lãnh – Tỉnh Đồng Tháp” title=”Giới thiệu khái quát huyện Cao Lãnh – Tỉnh Đồng Tháp – vansudia.net”>
Giới thiệu khái quát huyện Cao Lãnh
Là một huyện nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh, đến năm 2005, huyện Cao Lãnh có diện tích tự nhiên 491 km2 với 204.571 nhân khẩu (mật độ 417 người/km2). Phía Bắc giáp huyện Tháp Mười và Tam Nông, phía Nam giáp huyện Châu Thành và thị xã Sa Đéc, phía Đông giáp huyện Tháp Mười và Cái Bè (Tiền Giang), phía Tây giáp huyện Thanh Bình và thị xã Cao Lãnh.
Ranh giới hiện thời của huyện được xác lập vào năm 1983, khi tách huyện và nâng cấp thị trấn Cao Lãnh lên thành thị xã. Huyện Cao Lãnh nằm trải dài theo quốc lộ 30 vào sông Tiền, thuộc vạt đất ven sông bao quanh phía Tây của Đồng Tháp Mười với sông, rạch, kinh, mương chằng chịt rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và lưu thông thương mại từ khi quốc lộ 30 được nâng cấp, xe cộ lưu thông với tốc độ cao từ ngã ba An Hữu đến Hồng Ngự.
Các tài liệu còn lại đến nay chưa đủ để xác định thời điểm cụ thể mà các nhóm lưu dân người Việt dừng chân lập nghiệp trên vùng đất này. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định được rằng, khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược (1698), xác lập chủ quyền của người Việt Nam trên vùng đất mới, lập ra hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, thì huyện Tân Bình trải dài đến tận sông Tiền, tức là bao gồm cả vùng Cao Lãnh. Đất Gia Định quá rộng, để quản lý có hiệu quả hơn, năm 1732, chúa Nguyễn lấy đất phía nam Phiên Trấn, tức vùng đất ven sông Tiền làm châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ, lỵ sở đặt tại Cái Bè, nên thường được gọi là Cái Bè dinh. Năm 1772, chúa Nguyễn Phước Thuần thấy “xứ Mỹ Tho” đã định hình, nên cho thành lập đạo Trường Đồn. Đến tháng 11 năm 1779, lại thấy đạo Trường Đồn quá rộng lại nằm ở chỗ trọng yếu của ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ, nên cho nâng cấp đạo Trường Đồn lên thành dinh Trường Đồn gồm một huyện là Kiến Khương với ba tổng. Địa bàn huyện Cao Lãnh ngày nay nằm trong tổng Kiến Đăng. Năm Gia Long thứ 5 (1806), dinh Trường Đồn đổi thành trấn Định Tường với một phủ, ba huyện và sáu tổng, địa giới huyện Cao Lãnh nằm trong tổng Kiến Phong (huyện Kiến Đăng). Theo Gia Định thành thông chí thì tổng Kiến Phong bao gồm toàn bộ vùng Đồng Tháp Mười, có tất cả 43 thôn; trong đó có 11 thôn nằm trên địa giới huyện Cao Lãnh:
1- Mỹ An Đông 2- Mỹ An Tây 3- Mỹ Long 4- Bình Hàng Trung 5- Bình Hàng Tây 6- Mỹ Lộc | 7- Mỹ Toàn 8- Mỹ Xương 9- Mỹ Định 10-Mỹ Dão 11- An Bình |
Trong cuộc đo đạc địa chính năm 1836 để lập địa bạ Nam Kỳ, trên địa bàn huyện Cao Lãnh còn lại 10 thôn, vì hai thôn Mỹ Định và Mỹ Lộc nhập lại thành thôn Nhị Mỹ.
Đến năm 1838, phần đất phía thượng lưu sông Tiền của huyện Kiến Đăng được tách ra để lập huyện Kiến Phong. Địa bàn huyện Cao Lãnh ngày nay cũng gồm 10 thôn như cũ nằm trong tổng Phong Phú (7 thôn) và Phong Thạnh (3 thôn: Mỹ Đão, Nhị Mỹ và An Bình) của huyện Kiến Phong.
Trong thời Pháp thuộc, từ tháng 6 năm 1865 đến năm 1876 địa bàn huyện Cao Lãnh thuộc quyền quản lý của khu tham biện Cần Lố; trong thời gian này, thôn Mỹ Toàn đổi tên thành Mỹ Hội. Từ năm 1876 đến năm 1899, thuộc khu tham biện Tân Thành (Sa Đéc) và từ năm 1900, khu tham biện Sa Đéc trở thành tỉnh Sa Đéc, địa bàn huyện Cao Lãnh gồm có 13 làng, thuộc tổng Phong Nẫm và hai làng của tổng Phong Thạnh:
– Tổng Phong Nẫm có 11 làng: Mỹ An Đông, Mỹ Hiệp, Mỹ Long, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Hội, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Thọ, An Bình…
– Tổng Phong Thạnh có 6 làng: trong đó hai làng Mỹ Thạnh, Nhị Mỹ thuộc huyện Cao Lãnh.
Nghị định ngày 10-12-1913 thành lập quận Cao Lãnh gồm ba tổng với 19 làng:
– Tổng Phong Thạnh có 6 làng: Mỹ Trà, Mỹ Ngãi, Tân An, Phong Mỹ, Nhị Mỹ, Mỹ Thạnh.
– Tổng An Tịnh có 4 làng: Hòa An, Tịnh Thới, Tân Tịch, Tân Thuận.
– Tổng An Thạnh Thượng có 8 làng: Hội An, Hội An Đông, Hội An Thượng, Mỹ An, Mỹ Hưng, Tân Mỹ, Tòng Sơn.
Danh nghĩa là một quận của tỉnh Sa Đéc, nhưng trên thực tế Cao Lãnh chỉ là một “đồn hành chính” (Postl Administratif), phải đến nghị định ngày 23-9-1925 Cao Lãnh mới được chính thức nâng cấp lên thành quận với một “đại lý hành chính” (Délégation Administrative) và quận Cao Lãnh gồm ba tổng; Phong Thạnh (có 6 làng như trước), An Tịnh (có 5 làng do Tân Thuận tách ra thành Tân Thuận Tây và Tân Thuận Đông) và Phong Nẫm (tổng An Thạnh Thượng trả về quận Châu Thành), tổng Phong Nẫm có 9 làng; Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Hội, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Thọ. Địa giới này giữ nguyên cho đến hết thời Pháp thuộc. Trong đó huyện Cao Lãnh ngày nay chỉ chiếm 12 làng, gồm 9 làng của tổng Phong Nẫm và ba làng An Bình, Nhị Mỹ và Phong Mỹ của tổng Phong Thạnh.
Đến tháng 10 năm 1956, chính quyền Ngô đình Diệm thành lập tỉnh Kiến Phong gồm có 6 quận. Trong đó:
– Quận Cao Lãnh có 12 xã: Nhị Mỹ, Mỹ Thiện, An Bình, Mỹ Ngãi, Tân An, Phong Mỹ, Hòa An, Tân thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân tịch, Tịnh Thới và Mỹ Trà.
– Quận Kiến Văn có 7 xã: Bình Hàng Tây, Bình Hàng Trung, Mỹ Thọ, Mỹ Xương, Mỹ Hội, Long Hiệp, Mỹ Thiện.
Theo đó, thì từ cuối năm 1956 đến năm 1975, địa bàn huyện Cao Lãnh bao gồm quận Kiến Văn và các xã Nhị Mỹ, Mỹ Thiện, An Bình, Phong Mỹ và một phần của hai xã Mỹ Ngãi và Tân An thuộc quận Cao Lãnh .
Từ năm 1975 đến năm 1983, huyện Cao Lãnh rất rộng, bao gồm địa bàn huyện Cao Lãnh hiện nay, huyện Tháp Mười và luôn cả thị xã Cao Lãnh ngày nay. Hiện nay huyện Cao Lãnh có 17 xã và một thị trấn: Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Thạnh, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Tân Hội Trung (mới lập vào tháng 6 năm 1989), Mỹ Hội, Mỹ Xương, Mỹ Thọ, An Bình, Nhị Mỹ, Phương Trà, Phương Thịnh, Phong Mỹ, Ba Sao, Tân Nghĩa, Gáo Giồng và Thị trấn Mỹ Thọ.
Theo gia phả của một số họ cư ngụ lâu đời trong vùng như gia phả họ Phạm ở Mỹ Xương, họ Trần ở Mỹ Long.. và sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì huyện Cao Lãnh là một trong các khu vực được khai phá khá sớm vào cuối thế kỷ 17, tiếp theo sau vùng đất Ba Giồng (Cái Bè, Cai Lậy của Tiền Giang). Do vị trí nằm ở ven sông Tiền, lại có nhiều rạch ăn thông với con sông cái này; thêm vào đó, đến năm 1790, con đường thiên lý phía Nam (qua nhiều lần cải tạo, nâng cấp, nay là quốc lộ 1 và quốc lộ 30) được đắp song song với sông Tiền, nên kinh tế hàng hóa trong khu vực có điều kiện sớm phát triển, chủ yếu là khai thác cá. Sắc phong Đại càn Quốc gia Nam hải tứ vị tôn thần được cấp đồng thời với sắc Bổn cảnh thành hoàng có ở hầu hết các xã thôn trong khu vực, thậm chí có nơi lập miếu thờ riêng như miếu Đại Càn ở xã Mỹ Xương cho thấy trước đây nghề cá là sinh hoạt chính và hàng năm các thôn làng còn có lệ cúng cầu ngư. Chùa Bửu Lâm (cái Bèo), còn gọi là chùa tổ ở Bình Hàng Trung được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 là một bằng chứng của công cuộc khai phá sớm này. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, phần lớn cư dân vẫn còn cư trú chủ yếu ở ven sông Tiền. Mạng lưới sông rạch tự nhiên chằng chịt với các rạch: Bà Dư, Xẻo Quít, Ông Cùng (Cũng), Xẻo Muốn, Cái Bát, Cái Sậy, Cái Bèo, rạch Chùa, Tân Trường, Mương Khai, Ngã Bát, Đường Gỗ, Cần Lố, Trà Bông, Mương Trâu, Xẻo Sình, Bà Mụ, Cái Dừng, Cái Môn, Ba Sao, Mỹ Ngãi, Cái Bí, Trâu Trắng… kết hợp với hàng loạt kinh đào dưới thời Pháp thuộc và thời Ngô Đình Diệm đã hình thành mạng lưới tưới tiêu, giao thông khá tiện lợi, hấp dẫn nông dân tiến vào khai phá vùng sâu trong Đồng Tháp Mười. Dưới thời Pháp thuộc đại bộ phận ruộng đất đều nằm trong tay các đại điền chủ như: Đỗ thị Đệ, Nguyễn Thị Phước, Lê Quang Hiển, Nguyễn Tấn Dược, Trương Văn Bền, Bá Hộ Kiệu, Doseil (nông dân gọi là Đô-Sơn), Thomassini… Các điền chủ này khôn khéo chiêu dụ nông dân đào kinh, khai mương, cho vay lúa, vay tiền, lập chợ, đắp đường…Nông dân vì chén cơm manh áo đã cần cù gian khổ khai phá; biến đồng hoang đầy lau, sậy, tràm… thành ruộng vườn tươi tốt làm cho lẩm lúa của các điền chủ đầy ắp có khi đến hàng ngàn giạ, trong khi đó nông dân trực tiếp canh tác khổ cực phải chạy gạo từng bữa.
Sau ngày đất nước thống nhất, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Vì chủ quan và nóng vội trong việc thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp, nên đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên sau Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nhờ được từng bước công nhận quyền sử dụng đất lâu dài, nông dân đã phấn khởi đầu tư sản xuất, kết hợp với hệ thông thủy lợi do nhà nước đầu tư và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất… sản lượng tính theo đầu người vào năm 1985 chỉ đạt 412,75 kg; năm 1990 tăng lên đến 1.293,15 kg và đến năm 1995 đạt 1.526 kg.Như vậy chỉ trong vòng mười năm sản lượng lúa tính theo đầu người tăng hơn ba lần.
Là một vùng được khai phá, mở mang tương đối sớm, nhưng do địa hình không đồng đều, nên trong huyện đã hình thành hai vùng với những đặc điểm khác nhau về phân bổ cư dân cũng như về sinh hoạt kinh tế xã hội. Phía Tây Nam huyện (tức vùng ven sông Tiền) đất tương đối cao, lại màu mỡ. Đây là vùng có người đến cư ngụ sớm, cư dân đông đúc. Du khách đi sâu vào thôn xóm dễ nhận thấy cư dân ở đây có mức sống khá cao, đời sống ổn định, nhà cửa khang trang. Hiện nay, nơi đây chẳng những là vùng canh tác lúa cao sản, mà còn là vùng trồng cây ăn trái với diện tích lên đến 1.562 ha và cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu…Còn phần đất phía đông bắc huyện thuộc một số xã nằm sâu trong Đồng Tháp Mười, đất thấp, lại nhiễm phèn nặng, cư dân thưa thớt, đời sống còn nhiều khó khăn. Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, nơi đây là vùng căn cứ cách mạng, chịu nhiều sự tàn phá của bom đạn, dân chúng chịu nhiều hy sinh, mất mát về người và của. Nếu giải quyết tốt vấn đề thủy lợi, giao thông nông thôn và trợ vốn cho sản xuất…bộ mặt nông thôn sẽ khá hơn và hàng năm sẽ thu hoạch thêm một số lượng nông phẩm hàng hóa không nhỏ.
Do địa thế gối đầu với đất Ba Giồng (Tiền Giang), lại có sông Tiền, án ngữ phía nam, nên trong giai đoạn tranh chấp Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1776-1788), huyện Cao Lãnh là địa bàn trú ẩn, đi lại hoạt động của Nguyễn Ánh trên tuyến đường từ Sài gòn xuống đồng bằng sông Cửu Long thông ra vịnh Thái Lan, đến đảo Phú Quốc. Kết hợp với các thôn Long Hưng, Long Hậu, Long Hòa, Long Thắng…(của hai huyện Lai Vung, Lấp Vò) vùng này trở thành hậu cứ vững chắc của Nguyễn Ánh với nhiều lúa gạo mà một số điền chủ ở đây sẵn sàng ủng hộ. Thực tế này đã góp phần không nhỏ trong công cuộc khôi phục thế lực phong kiến của họ Nguyễn vào cuối thế kỷ 18 ở Nam Kỳ.
Chính vì vị trí chiến lược đó, nên ngay sau khi chọn Tháp Mười làm căn cứ (tháng Tám năm 1864), Thiên hộ Võ duy Dương đã cho lập một tiền đồn kiên cố tại vàm Cần Lố, tục danh là Doi Me, gọi là đồn Doi để vừa bảo vệ con đường tiếp tế từ các tỉnh miền Tây qua ngã Cần Lố vào Gò Tháp, vừa bảo vệ căn cứ từ xa. Nhân dân trong vùng chẳng những góp của góp công chiến đấu bảo vệ đồn, mà còn cung cấp cho nghĩa quân nhiều chỉ huy xuất sắc, can trường, mà đến nay người đời còn nhắc như Phòng Biểu (Nguyễn Văn Biểu ở Mỹ Thọ) Lãnh binh Miên (tức Trương Tấn Minh) ở An Bình, quản Võ ở Phong Mỹ…Chùa Bửu Lâm (Bình Hàng Trung) là một địa điểm nghĩa quân thường lui tới trên đường hành quân.
Để tiến hành đàn áp nghĩa quân Thiên Hộ Dương ở Tháp Mười, trước hết thực dân Pháp tấn công chiếm đồn Doi và đóng trụ sở tham biện (khu thanh tra) Cần Lố tại đây. Cần Lố là một trung tâm cư dân được hình thành từ thế kỷ trước; lúc bấy giờ, nó là địa bàn trung chuyển nhận lưu dân mới đến tiến vào khai khẩn Đồng Tháp Mười. Vàm Cần Lố là nơi gặp nhau của sông Cần Lố và rạch Cái Sao Thượng trước khi đổ nước vào sông Tiền; nơi đây có một doi đất mũi nhọn hình tam giác nhô ra sông Tiền, với nhiều cây me cổ thụ um tùm, nên từ lâu có tên là Doi Me. Để củng cố khu tham biện Cần Lố, một cửa ngõ vào Đồng Tháp Mười, thực dân Pháp cho đào một con kinh nhỏ tách rời mõm doi với đất liền và cho xây dựng ở mõm doi một hệ thống đồn lũy kiên cố với kích thước 44 x 48,50m[3]. Tham tá Cần Lố vào vai trò quan trọng trong việc đàn sức ép lượng kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Lúc căn cứ Tháp Mười tan rã, nghĩa quân Thiên Hộ Dương còn hoạt động một thời kì ở các thôn Mỹ Xương, Bình Hàng Trung, Mỹ Thọ, Ba Sao, Phong Mỹ dưới quyền chỉ huy của Lãnh Binh Cẩn (Nguyễn Văn Cẩn), Phòng Biểu (Nguyễn Văn Biểu)…
Vào đầu thế kỷ 20, phong trào Đông Du tăng trưởng mạnh, ở Cao Lãnh có nhiều thanh niên xuất dương sang Nhật du học như Nguyễn Tôn Nhơn ở An Bình, Đinh Hữu Thuật ở Mỹ Xương… ngoài ra còn có nhiều gia đình bỏ tiền ra tài trợ, bỏ công đi động viên phong trào.
Cao Lãnh cũng là nơi có cơ sở Đảng khá sớm, năm 1930, chi bộ Phong Mỹ, Mỹ Thọ, liên chi bộ An Bình-Nhị Mỹ…tuần tự ra đời, cùng với chi bộ Hòa An và các chi bộ ở tổng Phong Thạnh Thượng lãnh đạo nhân dân khu vực phía Bắc sông Tiền tài tỉnh bước vào thời đoạn đấu tranh mới để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp khỏi giai cấp thống trị của thực dân phong kiến. Những người cộng sản huyện Cao Lãnh cùng với nông dân trong huyện có mặt trong các buổi đấu tranh, biểu tình đòi dân sinh, dân chủ trong những năm 1930 ở Đồng Tháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng sâu của các xã Mỹ Long, Mỹ Hiệp, Bình Hàng Trung, Bình Hàng Tây, Mỹ Thọ…là những khu căn cứ vững chắc của tỉnh, của huyện và của một số tỉnh bạn; nhiều cơ quan của Sài Gòn, Chợ Lớn của miền cũng đóng ở đây. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa Bửu Lâm (Bình Hàng Trung) là nơi đóng trụ sở của một số cơ quan của tỉnh, huyện (Ủy ban KCHC, Công an…) của Nam Bộ (Hội Phật Giáo Cứu quốc). Trong những năm 60, tỉnh ủy Kiến Phong nhường căn cứ Tam Thường (Hồng Ngự) cho Khu, về củng cố và trụ lại ở căn cứ Xẻo Quít (Mỹ Hiệp) cho tới năm 1975, còn huyện ủy Cao Lãnh về đóng ở Tràm Dơi (Mỹ Thọ). Người dân Cao Lãnh rất tự hào vì đã góp phần công sức, tiền tài và cả xương máu vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Là vùng đất được khai phá tương đối sớm; song song với quá trình khai hoang lập làng, mỗi thôn đều có một ngôi đình lớn nhỏ không giống nhau tùy theo khả năng tài chính của mỗi thôn. Qua nhiều lần tách, nhập, lập làng xã mới và do chiến tranh tàn phá, tới nay toàn huyện Cao Lãnh chỉ còn 12 ngôi đình; tất cả đều có sắc phong. Toàn thể đều là sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng có từ 6 tới 8 mỹ tự (Kiểm soát an ninh, Cương trực, Hựu thiện, Đôn Ngưng Chi Thần), được gia phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1852); tuy nhiên có một số thôn được cấp sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần. Riêng thôn Mỹ Hội (trước là Mỹ Toàn), sắc Đại Càn được gia phong lần thứ tư (năm Tự Đức thứ 15, 1861), đặt danh hiệu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải hàm hoàng Quang, Đại Chi Đức, Phổ Bác, Hiển Hóa, Trang huy tứ vị thượng đẳng thần. Mỹ Hội cũng là thôn hiện nay còn lưu giữ được 6 lá sắc (ba cấp cho Bổn cảnh thành hoàng, ba cấp cho thần Đại càn). Điều đó cho thấy trước đây hàng năm các thôn ngoài lệ cúng hạ điền (vào tháng 4 hoặc tháng 5 âm lịch) và lệ cúng thượng điền (vào tháng 11 hoặc 12) như các nơi khác, còn có tục cúng cầu ngư vào mùa nước rút (vào tháng 10). Hiện nay trong huyện có hai chùa Ông (dạng miếu thờ Quan Công), 13 miếu bà Chúa Xứ, một miếu Đại Càn, một miếu Hội (thờ liệt sỹ chống Pháp), một miếu Ông (thờ Cọp)… Ở thị trấn Mỹ Thọ, sát quốc lộ 30, nghĩa trang liệt sỹ huyện qui tập hài cốt các liệt sỹ đã hy sinh trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp chống Mỹ và các liệt sỹ hy sinh trong tranh đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của tổ quốc để nhân dân có điều kiện viếng thăm tưởng vọng. Một số xã lập nhà bia kế bên trụ sở Ủy ban nhân dân xã, ghi tên các người hùng liệt sỹ trong xã. Xẻo Quít, căn cứ tỉnh ủy ở Mỹ Hiệp được trùng tu phục chế, tu tạo không những trở thành một vị trí du lịch thu hút nhiều khách thăm quan trong và ngoài nước nhưng còn có tác dụng giáo dục truyền thống, nhắc nhở ý thức uống nước nhớ nguồn đối với lớp trẻ.
Hiện nay trong huyện có 3.383 hộ có đạo, gồm 8.686 người chiếm 4,95% dân số của huyện; chia ra:
– Đạo Cao Đài: 3.351 tín đồ,
– Đạo Phật : 3.143 tín đồ,
– Đạo Thiên Chúa : 1.121 tín đồ,
– Đạo Hòa Hảo : 673 tín đồ,
– Đạo Tin Lành : 398 tín đồ.
(Nguồn: Thực trạng Tôn giáo tôn giáo Đồng Tháp năm 1995).
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quốc gia thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Cao Lãnh đã có nhiều nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Quốc lộ 30 được upgrade, xe pháo lưu thông qua phần lớn các xã trong huyện; hình ảnh gây ấn tượng với du khách là mỗi xã đều có trường tiểu học, trạm y tế khang trang được xây dựng theo một sơ đồ thiết kế thống nhất; mười xã có trường trung học cơ sở, riêng xã Mỹ Long và thị trấn Mỹ Thọ có trường phổ thông trung học. Trong năm học (2004-2005) toàn huyện có 52 trường, chia ra: tiểu học (32) , trung học cơ sở (16), phổ thông trung học(4), với 38.878 học trò; trong đó cấp tiểu học có 18.160 học trò, cấp trung học cơ sở có 15.988 học trò, cấp trung học phổ thông có 4.724 học trò. Số thầy cô giáo là 1.562 thầy cô, trong đó số thầy cô giáo cấp tiểu học là 782, cấp trung học cơ sở là 586 và cấp trung học phổ thông là 194. Riêng cấp mẫu giáo có 138 thầy cô giáo.
Ngoài ra, còn có một trường bán công; trong huyện có 3480 học trò cấp mẫu giáo. Về y tế, có 18 trạm y tế xã với 96 giường, một bệnh viện đa khoa với 70 giường bệnh và một phòng khám khu vực với 10 giường
Các xã đều có chợ giao thương tấp nập, đặc thù là chợ thị trấn Mỹ Thọ, được dời từ chợ Doi Me cũ ra ngã ba rạch Ông Bầu, sát quốc lộ 30, thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa đường bộ lẫn đường thủy.
[/box]
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Cao #Lãnh
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giới thiệu nói chung huyện Cao Lãnh bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Địa lý
#Giới #thiệu #khái #quát #huyện #Cao #Lãnh
Trả lời