Sau ba thế hệ Trạng nguyên, dòng họ này cũng liên tục xuất hiện nhiều học giả nổi tiếng.
Tài năng xuất chúng bộc lộ từ khi còn trẻ
Theo gia phả dòng họ Hồ Tâm Công thì Hồ Tông Thốc sinh năm Giáp Tý (1324), người Gò Tràm – gọi là Kẻ Cuội hay Trang Cuội thời nhà Trần, ở xã Quý Trạch, tổng Quy Trạch, tỉnh Đồng Nai. Huyện Thành, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An – nay là xã Thổ Thành, huyện Yên Thành.
Thuở nhỏ, Hồ Tông Thốc có tên là Hồ Giác Thiết và tên khác là Hồ Tông Xá. Ông nội của Hồ Tông Thốc là Hồ Khả – cháu đời thứ 13 của Hồ Hùng Đạt.
Hồ Tông Thốc nổi tiếng là đứa trẻ nhà nghèo hiếu học, học giỏi và được coi là thần đồng. Lớn lên, cha ông gửi ông đi học thạc sĩ ở huyện Dương Hảo, tỉnh Hải Dương. Nổi tiếng là người biết chữ, làm thơ giỏi và có trí nhớ rất tốt, Hồ Tông Thốc được thầy rất quý mến.
Hồ Tông Thốc nổi tiếng là đứa trẻ nhà nghèo hiếu học, học giỏi và được coi là thần đồng. Hình minh họa
Anh vốn là người thông minh và sống trong một gia đình giàu có. Anh ấy đã có tài từ nhỏ. Sách “Cường Mục” viết: “Người trẻ thi sớm, nổi danh văn chương”. “Cây họ Hồ” cho biết, thuở nhỏ ông sống ở làng, sau đó đi du học ở xã Võ Ngãi, huyện Dương Hảo (Hải Dương).
Theo sách Kể chuyện thần đồng Việt Nam, nhân dịp Tết Nguyên đán (rằm tháng giêng), một quan đại thần tên Lê đã treo đèn lồng, bày tiệc và mời văn nhân đến dự. nhà để ôn thơ. Các vị khách văn học đến rất đông, đều có mặt các nhà văn và nhà thơ nổi tiếng. Hồ Tông Thốc lúc đó còn trẻ nhưng cũng đã theo học. Ngay khi câu hỏi được đưa ra, ông đã viết liên tiếp 100 bài thơ, trong khi mọi người vẫn đang suy nghĩ.
Đến thời điểm xuất bản, hàng trăm bài thơ của ông đều rất hay, không bài nào thua kém bài nào. Tất cả đều vượt trội so với những người khác. Từ đó trở đi, danh tiếng của ông lan rộng khắp vùng, và không ai trong giới trí thức ngưỡng mộ ông.
Khoa Tấn Tý (1341) đời vua Trần Hiển Tông, Hồ Tông Thốc vừa tròn 17 tuổi thi Đình và thi đậu với một bài luận được lưu truyền khắp cả nước. Sau khi thi đậu, ông được phong làm Thiếu tá, giữ chức Viện sĩ, Phùng Chi, Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Là người có học thức cao, giỏi thơ ca, khéo léo trong giao tiếp nên ông thường được vua Trần cử đi tiếp xúc với các sứ thần nước ngoài và sang Trung Quốc nhiều lần. Hồ Tông Thốc là người đầu tiên đặt tên Việt Nam theo đúng nghĩa Quốc hiệu và ghi tên nước Việt Nam vào lịch sử đất nước do ông soạn thảo. Ông cũng là người đầu tiên có cái nhìn độc đáo và đúng đắn về thời đại Hồng Bàng – hay còn gọi là thời đại Hùng Vương, và mối quan hệ giữa thần thoại và lịch sử.
Sử gia Ngô Sỹ Liên trong “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” bàn về cuốn “Việt sử Cường Mục” của Hồ Tông Thốc: Đặc biệt, cuốn “Việt sử Cường Mục” của Hồ Tông Thốc được viết rất kỹ lưỡng và bài bản. Cách thức, bình luận những vấn đề liên quan mà không rườm rà cũng gần như đáng hy vọng. Nhưng sau chiến tranh và hỏa hoạn, cuốn sách đó không được phổ biến rộng rãi.
Cha nào con nấy
Thi đỗ xong, ông về lấy con gái quan làm vợ và sinh ra nhiều người tài giỏi. Con trai Hồ Tông Thốc là Hồ Tông Đôn và cháu trai Hồ Tông Thành (con trai Hồ Tông Đôn) cũng thi đỗ.
Người đương thời ca ngợi họ Hồ Tông Thốc là “Mãi danh Nhạn Tháp/Nhất gia hưng thịnh, ích lợi Long Môn” và “Phúc Trang Nguyên, Từ Diệu Nguyên Nguyên” – nghĩa là cha con đỗ đạt nối tiếp nhau nhiều đời. Trang.
Việc ba thế hệ ông bà, con cháu liên tiếp thi đậu đã được nhiều sách vở, bao thế hệ nhắc đến. Tuy nhiên, trong “Đăng Khoa Lục” và các tấm bia ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đều không có đăng ký. Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng vì họ là Trại Trạng Nguyên – không phải là Kinh Trạng Nguyên nên tên của họ không được khắc trên bia Văn Miếu. Tuy nhiên, ý kiến này không thỏa đáng vì vào năm 1266 dưới thời vua Trần Thánh Tông – Bạch Liễu, ông đã đỗ Trại Trạng Nguyên và vẫn còn tên ông trên tấm bia Tiến sĩ.
Khoảng ba thế hệ ông bà – con – cháu liên tiếp đỗ Trạng nguyên, được nhắc đến trong nhiều sách vở, bao đời. Hình minh họa
Vì vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng cần bổ sung thêm các văn bản chính thức. Chỉ để tôn vinh một sự kiện hiếm hoi trong lịch sử học thuật phong kiến. Đồng thời, đó là cách khẳng định tính chính đáng để thế hệ mai sau biết đến như một minh chứng cho truyền thống học thuật.
Sau ba đời Trạng nguyên, họ Hồ thời gian sau này cũng liên tục xuất hiện nhiều học giả nổi tiếng: Hồ Bình Quốc làm Thị Lang, Hồ Sĩ Dương làm Thừa tướng, Hồ Phi Tích giữ chức Bộ trưởng, Hồ Sĩ Tấn giữ chức Thừa tướng. Bộ trưởng, mục sư. chức Thị trưởng, Hồ Sĩ Đông chức Bộ trưởng…
Hồ Tông Thốc tuy có cùng nguồn gốc gia đình với Hồ Quý Ly nhưng ông có những quan điểm khác nhau về vận mệnh đất nước và ủng hộ nhà vua. Từ năm 1388, nhất là sau khi biết Hồ Quý Ly xúi giục hoàng đế Trần Nghệ Tông xử tử vua Trần Phê Đế, cùng với việc Hồ Quý Ly sát hại hàng trăm hoàng thất nhà Trần, ông đã xin phép vắng mặt.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp nhà Trần. Hồ Tông Thốc vì tuổi già sức yếu đã trở về quê hương Kẻ Cuội và mất tại đây vào năm Giáp Thân (1404), thọ 80 tuổi.
Ngoài tài năng xuất chúng về thơ ca và ngoại giao, Hồ Tông Thốc còn là một nhà sử học vĩ đại. Cùng với “Việt sử Cường Mục”, ông còn viết bộ truyện “Việt Nam Thế Chí” gồm 2 tập ghi lại 18 đời vua Hùng và gia phả họ Triệu.
Ông cũng là tác giả các sách: An Đặng Bảo Người Nghi Minh, Thảo Nhân Hiếu Tân Thị Tập, Phú Học Chi Nam. Rất tiếc những cuốn sách này đã bị nhà Minh tịch thu và mang về Kim Lăng trong thời kỳ nước ta còn thuộc địa, không còn nữa. May mắn thay, gia phả họ Hồ ở Thái Nha và các tác phẩm “Truyền thuyết Mạn Lục” của Nguyễn Du, “Thơ Hoàng Việt” của Bùi Huy Bích… cũng chép lại một số bài thơ của ông.
>> Gia đình đặc biệt nhất thế giới có 5/6 thành viên đoạt giải Nobel
Nhớ để nguồn bài viết này: https://nguoiquansat.vn/gia-dinh-duy-nhat-su-viet-3-doi-do-trang-nguyen-ong-con-chau-deu-tai-nang-xuat-chung-co-kha-nang-lam-100-bai-tho-lien-luc-128781.html
Chuyên mục: Kiến thức chung
Trả lời