Thuyền (thuyền buôn bán) là phương tiện đi lại quan trọng nhất của Việt Nam và là sản phẩm độc đáo của những người thợ đóng thuyền ở các tỉnh duyên hải miền Trung.
Thuyền (thuyền thương mại) là phương tiện đi lại quan trọng nhất của Việt Nam, ra đời vào khoảng giữa thế kỷ 16, tồn tại đến nửa đầu thế kỷ 20 và là sản phẩm độc đáo của những người thợ đóng thuyền trên thế giới. tỉnh ven biển miền Trung, từ Quảng Bình đến Bình Thuận.
Theo các nhà ngôn ngữ học, “ghe bầu” trong tiếng Việt là một từ gốc Mã Lai – “gay prau” hay “gay perahu”. Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quấc âm tự vị giải thích “Thuyền mang bụng, mang mũi là thuyền ra biển”.
Về cấu tạo, ghe bầu có phần bụng tròn, phình rất lớn để chứa được nhiều hàng hóa. Tay lái và mũi đều dễ điều khiển. Thuyền có ba cột buồm với những cánh buồm lớn đơn giản, có thể cuốn lên hoặc nâng lên dễ dàng. Buồm hình tứ giác, tam giác, có lá buồng, không có nẹp gỗ ngang như buồm Trung Quốc. Mặc dù có nhiều loại khác nhau, nhưng về cơ bản, đây là loại có đáy kép, thân tàu nhọn, có mũi tàu và bánh lái cong, hoặc mũi tàu và bánh lái dài, thẳng bất thường. Điểm đặc biệt là bánh lái nằm ở khoang cạnh đuôi thuyền.
Cấu tạo của ghe bầu gồm 3 khoang: khoang cập bến, khoang trong và khoang mũi. Mỗi thuyền có 3 cột buồm để căng buồm. Cao nhất là tim cột (9 – 12m), thấp hơn là mũi cột, lái cột. Dây buồm làm bằng mây, to bằng cổ tay, có nhiều ở vùng núi phía Tây. Mỗi thuyền có 1 bánh lái, 1 bánh lái, 1 bánh mũi, 4 mái chèo ngang, 1 cây thắng gió (đặt ngang, dài 12m, để giữ thăng bằng cho 2 thuyền), 12 thanh giằng (mỗi thanh nặng 12-15). kg), được đặt trên nẹp để giữ thăng bằng.
Bầu Lý Sơn được ưa chuộng có chiều dài hơn 20m, rộng khoảng 4m, cao 1,5m, trọng lượng khoảng 80 tấn. Quả bầu lớn hơn một chút trong đất liền. Khoảng cuối thế kỷ 19, người ta chế tạo quả bầu dài tới 30m, trọng tải hơn 120 tấn.
Thân thuyền làm bằng ván (be) chồng lên nhau cao hai, ba lớp (gọi là be kép, be ba), ở giữa mạn thuyền có một nan. Chuồng là một tấm ván dày, rộng gấp đôi thuyền, có buộc dây từ đỉnh cột buồm xuống đáy. Dưới màu be, có một phần nằm hoàn toàn dưới nước, đó là một mê cung, được đan bằng những thanh tre dày và lớn, trát dầu. Hai đầu bầu là hai bánh xe lớn, dùng toàn thân mù u, có hướng hơi cong, khoét rỗng để tra ống lái (vô lăng) và tra xà. Người ta lấy phân trâu trát thuyền nhiều lớp rồi dùng cùi dừa nhúng dầu yến mạch đập vào thuyền để chống thấm nước.
Ở các tỉnh Nam Trung Bộ, bầu được dùng để câu chuồn và buôn biển. Vào mùa cá chuồn, ngư dân lại đưa thuyền ra khơi, lênh đênh nhiều ngày trên biển. Bắt được cá thì muối sẽ mặn; cá lớn để làm khô. Khi hết thức ăn hoặc thuyền đầy cá, hãy lên bờ.
Thời Nguyễn, giao thông đường bộ khá phát triển, với xương sống là đường trời, chạy từ kinh thành Huế đi 31 tỉnh, thành trong cả nước với hệ thống đồn, dịch, quán được tổ chức bài bản. Tuy nhiên, việc đi lại dọc đường Nam – Bắc còn gặp nhiều khó khăn, do phải qua nhiều đèo dốc, sông suối, thường xuyên sạt lở, hư hỏng vào mùa mưa bão. Tình trạng cướp bóc, nhũng nhiễu của một số nhóm thổ phỉ cũng khiến thương lái e ngại.
Tình hình giao thương trên bộ như vậy đã làm cho các tuyến đường thủy dọc duyên hải miền Trung, với hệ thống cảng thị từng được cư dân Chăm, sau đó là thương nhân Trung Quốc và Nhật Bản sử dụng, trở nên hết sức quan trọng. trong việc giao lưu hàng hóa với các vùng, miền trong nước. Gió mùa và kinh nghiệm đi biển dày dặn của ngư dân Quảng Ngãi cũng là những yếu tố góp phần thúc đẩy thương mại đường biển phát triển. Đường, quế, mật ong, dầu phượng, nhựa cây mắm, đá vôi, cau khô, muối Sa Huỳnh (Đức Phổ)… nước. Lúa, gạo, vải vóc, sợi gai… là những sản vật từ nơi khác mang đến.
Tháng chạp, họ lên đường theo gió mùa đông bắc vào Nam ngược xuôi theo gió, tháng tám về quê, kéo thuyền vào bờ sửa chữa. Gần đường thì vào Tam Quan (Bình Định) mua dây dừa, cói, gỗ, vải, gai về bán cho ngư dân Quảng Ngãi, Quảng Nam đóng thuyền, khâu buồm, đan lưới. Xa hơn thì vào Bình Thuận mua cá sặc, mắm về bán ở quê hay vào Nam Định, Nghệ An, xa hơn thì xuôi vào Nam mua dừa, gạo về Quảng Ngãi và các tỉnh phía Bắc bán. Tại xã An Vĩnh (huyện đảo Lý Sơn), một số dân tộc sinh sống bằng nghề vận chuyển hàng hóa bằng thuyền như: Võ, Đặng, Phạm… Ở Cổ Lũy, Trương Định, Mỹ Khê (xã Tịnh Khê, huyện). Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) trước đây có một số người mua ghe bầu để buôn bán bằng đường biển, địa phương gọi là thương lái.
Bánh lái (hay còn gọi là Hò Thụy Trinh) là một sản phẩm văn hóa dân gian đặc sắc của những người đi đò. Bài thơ là một hải đồ thô sơ nhưng sống động và sinh động cho những người đi biển từ Nam ra Bắc và ngược lại, diễn tả đầy đủ địa danh, sông rạch, núi non, bãi đá cửa sông, phố xá, thời tiết. khí hậu từng vùng, chú ý những nơi nguy hiểm thường gây tai nạn cho tàu thuyền qua lại. Đặc biệt các bác tài thể hiện khá sinh động tình yêu quê hương đất nước, tình cảm của người dân miền biển: chân chất, giản dị nhưng dũng cảm, bền bỉ:
Quảng Ngãi, Trà Khúc núi chi? / Có đảo Thiên An ghi dấu cho đời / Ta sẽ buông đảo Súp / Trong vịnh, ngoài khơi, núi non bao la / Cánh buồm sẵn sàng ba cánh / Ta có nhiều bạn bè. Lương / Mỹ Á, Cửa Cạn, Hàng Thương / Chạy đến tận Bãi Trường đội xô đá / Vát ra mũi Sa Hoàng / Kìa thấy Tam Quan nhiều dừa…
Đến giữa thế kỷ XX, khi Quốc lộ 1 được củng cố và nâng cấp, vận tải ô tô cơ giới ngày càng thể hiện ưu thế về tải trọng cũng như tính linh hoạt trong giao nhận hàng hóa. kết thúc vai trò của mình trong lịch sử giao thương đường thủy của miền Trung và cả nước. Tuy nhiên, trong ký ức của nhiều thuyền nhân, những “lái tàu”, hình ảnh những con thuyền xuôi ngược Nam Bắc vẫn là biểu tượng của một thời ngang dọc biển cả, vừa nuôi ý chí mưu sinh, vừa thỏa mãn ước mơ. hồ.
Nhớ để nguồn bài viết này:
Ghe bầu & nghề buôn biển của website thpttranhungdao.edu.vn
Chuyên mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Ghe #bầu #nghề #buôn #biển
Trả lời