Câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về những việc làm của Trương Định sau hiệp ước 1862.
Câu trả lời:
* Hành động của Trương Định:
– Phối hợp với quân triều đình và Nguyễn Tri Phương chống Pháp.
– Sau Hiệp ước Nhâm Tuất 1862, triều đình ra lệnh bãi binh ngay, cử ông đi lãnh chức Lãnh binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng ông đã chống lệnh triều đình, quyết ở lại kháng chiến.
– Khởi nghĩa thất bại, Trương Định bị bắn trọng thương, rút gươm tự tử để giữ tiết tiết.
#M862105ScriptRootC1420804 { chiều cao tối thiểu: 300px; }
* Bình luận:
– Hành động của Trương Định thể hiện tinh thần dũng cảm cùng với lòng yêu nước mạnh mẽ, không khuất phục trước kẻ thù.
– Củng cố lòng tin của quần chúng.
Cùng trường Trường THPT Trần Hưng Đạo tìm hiểu thêm về Trương Định nhé!
1. Tiểu sử Trương Định
– Trương Định (1820 – 1864) hay Trương Công Định hay Trương Trương Định, là một võ quan nhà Nguyễn, lãnh tụ chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864 trong lịch sử Việt Nam.
– Trương Định quê ở làng Tư Cung, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng làm Hữu thủy quân ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
– Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, anh ở lại nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thương, là con gái một phú ông ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay).
– Năm 1850, hưởng ứng chủ trương cấp tốc của tướng Nguyễn Tri Phương, Trương Định đã bỏ tiền chiêu mộ dân nghèo vào lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công) nên được nhà Nguyễn phong làm Tổng đốc.
2. Trương Định trở thành thủ lĩnh chống Pháp
– Năm 1859, Pháp đánh thành Gia Định. Khi ấy, Trương Định đem nghĩa quân vào Gia Định. Ông đã lập nhiều chiến công trên tuyến từ Gò Cây Mai đến Thị Nghè và các trận đánh ở trung tâm Sài Gòn.
– Đầu năm 1861, Trương Định rút quân về Gò Công thuộc huyện Tân Hóa (Gia Định), quyết tâm đánh lâu dài. Trong thời gian này, Trương Định chiêu mộ thêm binh lính, tích trữ lương thực, chế tạo, mua sắm vũ khí, xây dựng Gò Công thành căn cứ địa kháng chiến. Nghĩa quân đông hàng nghìn người, thường xuyên tổ chức phục kích, đánh thắng nhiều trận. Trương Định thường xuyên liên lạc, hợp tác với hầu hết các sĩ phu, sĩ phu, văn nhân yêu nước trong vùng, nhanh chóng phát triển ảnh hưởng. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân ngày càng rộng khắp ở Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn ở Định Tường, Gia Định, lan sang hai bên nhánh sông Vàm Cỏ từ biển Đông sang Campuchia. ranh giới.
– Năm 1862, triều đình Huế bổ nhiệm Trương Định làm Phó lãnh binh tỉnh Gia Định. Phối hợp với phong trào chung ở các nơi, cuộc khởi nghĩa của Trương Định ngày càng lớn mạnh. Năm 1862, phong trào nổi lên khắp nơi, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Tháng 3 năm 1862, quân Pháp phải rút khỏi nhiều đồn vì sợ bị nghĩa quân phục kích. Hầu hết các phủ, thị trấn quan trọng của hai tỉnh Gia Định và Định Tường được giải phóng. Pháp chỉ giữ được kinh thành và một số đồn lẻ nên hết sức hoang mang, lo sợ.
– Ngày 5-6-1862, triều đình Huế bội ước lợi dân, ký Hiệp ước Nhâm Tuất với Pháp. Triều đình Huế buộc Trương Định phải ngừng bắn, giải tán nghĩa quân và buộc ông phải nhận chức lãnh đạo nghĩa quân tỉnh An Giang thuộc Tây Lục tỉnh. Nhưng Trương Định kháng lệnh triều đình ở lại Gò Công cùng nhân dân kháng chiến. Trong hoàn cảnh đó, chính nhân dân và nghĩa quân đã suy tôn Trương Định là Bình Tây Đại nguyên soái.
– Dưới ngọn cờ “Bình Tây đại nguyên soái” nêu cao khẩu hiệu “Phan, lâm mai quốc công”, động viên nhân dân đào hào đắp lũy, bố trí trận địa, lập tuyến phòng thủ để giữ những nơi hiểm yếu. yếu, mặt Đông ra biển, mặt Tây ngược lên Gò Công Tây. Hiện nay, những nơi này vẫn còn di tích như: Công sự Đồn ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông; Lũy Trại Cá ở xã Tăng Hòa, Ao Đình ở xã Tân Phước và Lá sẩm ở xã Gia Thuận, huyện Gò Công Đông; Lũy Đông Sơn, xã Đông Sơn, huyện Gò Công Tây; Lũy Dũng Giản, xã Bình Đông, thị xã Gò Công, vịnh đá Hàn, nơi nghĩa quân Trương Định lấy đá chặn sông Tiêu… Mặt khác, Trương Định chọn những nho sĩ tâm huyết làm tri phủ, tri huyện. ở nhiều nơi trong ba tỉnh. phương Đông, kể cả trong vùng bị địch chiếm đóng. Để huy động sức người, sức của phục vụ kháng chiến, Trương Định đã ra một thông điệp rất chân thành kêu gọi các tầng lớp nhân dân xung kích giết giặc.
– Ngoài ra, Trương Định còn liên kết chặt chẽ với các phong trào chống Pháp lúc bấy giờ với các sĩ phu yêu nước như: Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương ở Mỹ Tho; Nguyễn Đình Chiểu, Phan Tòng ở Bến Tre; Nguyễn Trung Trực, Phan Đạt ở Tân An; Bùi Quang Diệu, Đỗ Quang đều ở Cần Giuộc… nên thế và lực ngày càng mạnh, khiến quân thù phải khiếp sợ.
– Để đánh đổ lá cờ hiệu của Trương Định, giặc Pháp đã dùng mưu kế. Một mặt giục tỉnh Vĩnh Long, Phan Thanh Giản gửi thư ra lệnh cho Trương Định bỏ binh khí đầu hàng, rồi sẽ trả lại thành Vĩnh Long. Một mặt, chúng tung tin dụ Trương Định đầu hàng. Mặc cho bọn quan lại trong triều hèn nhát và lũ giặc Tây xảo quyệt ra sức thuyết phục và đe dọa, lập trường của ông vẫn không thay đổi. Quan điểm của Người trong các bài trả lời là “chỉ có chiến đấu không ngừng”, “triều đình không công nhận ta mà giữ nước”, “đại nghĩa tất thắng”.
– Thất bại trong âm mưu bức hàng, năm 1862 giặc Pháp ra lệnh tấn công Sơn Quy, nơi đặt đại bản doanh với một lực lượng tập trung khá đông. Trương Định lập kế nhử giặc vào đầm lầy, giết nhiều tên. Tuy nhiên, để bảo toàn lực lượng đánh lâu dài với địch, ông vừa bố trí phục kích các mũi tiến quân của địch, vừa cho quân rút an toàn về Lá Tối thuộc vùng Phước Thuận. Từ trong Lá Đậm, Trương Định ra tuyên ngôn nhân danh nhân dân Gò Công khẳng định với quân thù quyết đánh đuổi chúng đến cùng, dù không có vũ khí tối tân cũng dùng gậy gộc đánh giặc .
– Từ căn cứ kháng chiến, nghĩa quân của Trương Định liên tục tấn công đồn, trại Pháp. Lúc này, quân Pháp một mặt huy động lực lượng hùng hậu bao vây căn cứ Gò Công, mặt khác chiêu dụ Trương Định. Nhưng, ông vẫn chống Pháp đến cùng. Ngày 26-2-1863, Pháp mở cuộc tấn công vào căn cứ của nghĩa quân. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Trương Định buộc phải rút quân về Biên Hòa lập căn cứ ở Lý Nhơn và đưa một bộ phận nghĩa quân về Thủ Dầu Một – Tây Ninh tiếp tục chiến đấu.
3. Trương Định mất năm nào?
– Cuối năm 1864, trong một trận đánh ở căn cứ Tân Hóa, ông rơi vào vòng vây của quân Pháp. Do Huỳnh Tấn phản bội, kẻ trước đây theo ông chống Pháp nay đã rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để làm tay sai cho Pháp.
– Trương Định cùng nghĩa quân quyết tử chiến với giặc. Trong lúc chiến đấu, không may anh bị bắn gãy xương sống. Không để rơi vào tay giặc, Trương Định rút gươm tự tử vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864. Lúc đó ông 44 tuổi.
– Cái chết của Trương Định là một tổn thất to lớn đối với phong trào kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân và nhân dân ta lúc bấy giờ. Thương tiếc người anh hùng dân tộc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn khóc người anh hùng:
“Trời Bến Nghé mây mưa,
yêu người anh hùng gặp thời gian khó khăn
Đất Gò Công cây cỏ đang ấp ủ
Cảm tử thần, hết lòng trung thành
Xưa còn tướng, sáng hai chữ Bình Tây
Nay theo thần xin dựng câu phúc…”
Cuộc khởi nghĩa chống giặc Pháp của Trương Định trong một thời gian ngắn 1859 – 1864 đã trở thành một điểm sáng trong lịch sử dựng nước, giữ nước và chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Và, Trương Định trở thành thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống giặc Pháp.
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Lịch sử lớp 11 , Lịch sử 11
Bạn thấy bài viết Em có suy nghĩ gì về hành động của Trương Định sau hiệp ước 1862 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Em có suy nghĩ gì về hành động của Trương Định sau hiệp ước 1862 bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Giáo dục
Trả lời