Ấn tượng sâu sắc trong tôi về con phố Lý Quốc Sư (phường Hàng Trống – Hoàn Kiếm – Hà Nội) một thời là hình ảnh của cố nghệ sĩ Trần Vân (Nhà hát kịch Hà Nội). Tôi và anh tôi thường nhậu trên vỉa hè cuối phố vào thời điểm sôi động nhất của năm 1985 khi chính phủ đổi tiền.
Một lần gặp một thiếu nữ gánh cốm đi ngang qua, ông chợt đọc một bài thơ:Em rẽ vào phố chùa/ Minh Không chùm nắng hoa/ Nụ cười em tỏa nắng/ Hương cốm thơm đường“. Vì bên đó là nhà anh trong ngõ nhỏ đối diện chùa Lý Quốc Sư.
Phố mang tên chùa – Gió hiu hiu làng xưa
Đây là con phố có lịch sử hình thành hàng nghìn năm theo di tích đền miếu của làng Tiên Thị, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương (1131-thời Lý). Xưa kia, đây là ngôi nhà của thiền sư Nguyễn Minh Không (1065-1141) khi về kinh trị bệnh cho vua. Ông được coi là vị thần y có công chữa khỏi bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được tôn là Quốc Sư, đổi là Lý (Lý Quốc Sư). Ngôi nhà ông ở được lập đền thờ sau khi ông qua đời. Vị trí của chùa vẫn ở chỗ cũ cho đến nay tại số 50 phố Lý Quốc Sư. Sau này, chùa Lý Quốc Sư cũng được hình thành bên cạnh ngôi chùa cổ cùng tên. Đây là di tích quốc gia thờ Phật và ba vị thiền sư Lý Quốc Sư, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Giác Hải.
Góc phố Lý Quốc Sư.
Phố tuy chỉ rộng khoảng 6m nhưng lại nằm trong khu hành chính của quận cổ kính. Vì vậy, phố đã giao cắt với sáu phố là Ngõ Huyện, Chân Cầm, Ấu Triệu, Nhà Thờ, Nhà Chung và Hàng Bông. Rải rác trên phố, ngoài đền và chùa Lý Quốc Sư còn có đền Phạm Ngũ Lão (số nhà 25) và cuối phố còn có chùa Báo Thiên (nay là vị trí Nhà thờ Lớn). Người xưa kể lại một thời nữ sĩ Hồ Xuân Hương mở quán nước ở ngõ Ngõ Huyện. Đồng thời, quán cũng là nơi các Nho sĩ, quan văn đến bàn bạc, so tài cao thấp về chữ nghĩa.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), dinh tri huyện Thọ Xương được dời về khu vực này (di tích còn lại là phố Phủ Doãn). Mãi đến năm 1888, khi nhà Nguyễn nhường đất cho thực dân Pháp, huyện mới bị giải thể. Hình ảnh người thiếu nữ gánh cốm ra phố nơi cố họa sĩ Trần Vân đọc thơ đã là dĩ vãng nhưng còn vương vấn đâu đây:Rung chuông nhà thờ/ Theo dấu chân gót nhỏ/ Cột điện đầu ngõ/ Lá sen xanh gọi mùa/ Tiếng gọi tuổi thơ/ Lời kinh hòa nhịp, tiếng xạ hương/ Cây đa xòe búp đỏ / Gió hiu hiu làng xưa“.
Lý Quốc Sư còn được gọi là phố “Hàng Văn” với phố Hàng Trống. Tôi có dịp gặp ông Nguyễn Việt Hùng ở số 3 Lý Quốc Sư, một người đã sinh ra và lớn lên 60 năm trên con phố này. Anh nhớ cha anh kể lại, số nhà 24-26 là trường Trung Bắc do chí sĩ Nguyễn Văn Vĩnh thành lập năm 1920. Nhưng ông Vĩnh bị chính quyền Pháp xiết nợ nên phải bán cho nhà in Ngô Từ. Mùa hè. Ông chủ nhà in Ngô Tử Hạ đã có nhiều hoạt động có ích cho xã hội trong thời kỳ kháng chiến. Đây là nhà in đã quyên góp hàng tấn chì để in truyền đơn của Việt Minh. Không chỉ vậy, nơi đây còn in những đồng bạc đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945). Sau đó, ông còn hiến hàng nghìn mét đất cho chính quyền mới ở phố Lý Quốc Sư, Ngõ Huyện, Hàng Bông.
Sau khi cách mạng thành công, ông Ngô Tử Hạ là đại biểu cao tuổi nhất của Quốc hội khóa đầu tiên của nước ta. Ông cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử tham gia đoàn đàm phán với vua Bảo Đại để cử hành nghi lễ thoái vị. Nhà in Ngô Tử Hạ hoạt động và tồn tại đến năm 1955 thì liên doanh, liên kết thành Công ty in Thống Nhất. Ông Nguyễn Việt Hùng cũng cho biết, nhà in này đã phối hợp với nhà sách Tân Việt (ở số 29) xuất bản nhiều sách văn, thơ thời tiền chiến. Đặc biệt, cùng với các tác phẩm văn học chữ Hán, nhà sách Tân Việt còn có tạp chí đặc biệt in tác phẩm của Nguyễn Tuân, Trương Tửu, Đinh Hùng… và sách triết học của Nguyễn Đình Thi.
Ngày mai cho dù có bao giờ
Nhắc đến ví von phố Lý Quốc Sư là phố “Hàng Văn” cũng có lý khi trên phố còn có những địa chỉ văn hóa độc đáo, sôi động khác để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống hiện đại. Trước hết là ngôi nhà số 43 nơi cố nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2010) đã sống và mất tại đây. Chính tại ngôi nhà này, sâu trong con ngõ thân thương này, ông đã bắt đầu thảo những bài thơ tình như “Bông Lao Điếu”, “Tiếng gọi đôi lứa”, “Ba cây cúc”, “Thời gian tiễn đưa”, “Yêu em “…
Có thể coi phố Lý Quốc Sư là một mốc son cho sự nghiệp thơ ca của Hoàng Cầm sau vở “Kiều Loan” (kịch thơ-1942) và bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Việt Bắc tháng 4-1948). Đây là nơi nhà thơ sống từ năm 1955 cho đến khi qua đời (2010). Nỗi nhớ “Bông Liễu” hình như còn lang thang đâu đây. Đó là vào một đêm trằn trọc, ông thức đến canh ba, bỗng nghe có người đọc mấy câu thơ văng vẳng trong tâm thức nửa mê nửa tỉnh của mình:Váy Đình Bảng buông cửa võng… “. Thế đấy và nhà thơ phiêu du trong giấc mộng thơ. Anh ngồi cầm bút hờ hững với mối tình câm tuổi 13 với “Em gái xanh”. Những vần thơ thiên mệnh huyền nhiệm tuôn chảy từ mầm hạnh phúc hư ảo: “Nàng lang thang đi tìm/Chiều tối/Cọng rơm/Nàng nói/Lá lá tìm ai/Từ nay em gọi chồng… “.
Đền thờ Lý Quốc Sư.
Tôi nhớ có lần cùng người bạn nhậu món đậu rán ở số nhà 43 do nhà thơ Hoàng Cầm bán. Khi ngà ngà mùi rượu làng Vân, bạn tôi rủ Hoàng Cầm đọc thơ. Vì ai cũng từng nghe giọng ngâm thơ của Hoàng Cầm ngọt ngào, lôi cuốn. Để chiều lòng khách, Hoàng Cầm cao hứng vì thấy bạn tôi cứ nhắm mắt chờ đợi. Quả thật âm sắc ấm áp dịu dàng đã trình bày những vần thơ rưng rưng. Đó là những câu hát trong bài “Xa…” (Tháng 7-1985) với phụ đề “Khóc LHY”.
Đây là tên viết tắt của người vợ thứ ba của anh, người đẹp Lê Hoàng Yến. Bà sống với chồng ba mươi năm trước khi lìa cõi tạm (1955-1985). Có thể nói, người đẹp Hoàng Yến chính là cứu tinh của đời thơ Hoàng Cầm sau khi ông dính líu một thời gian trong vụ án Nhân Bản Giải Phóng (1956). Các tập thơ “Tiếng hát quan họ” (1956), “Về Kinh Bắc” (Xuất bản 1959, tái bản 1994) và “Bên kia sông Đuống” (1970, tái bản 1993) là kết quả của “Sống ở đời”. sự cần thiết. có một trái tim” Trịnh Công Sơn của mối tình hạnh phúc thứ ba này.
Trong những năm tháng gian khổ, nhà thơ như trao thân mình cho kẻ cô đơn. Nhưng người vợ đã cứu sống chồng bằng tấm lòng yêu thương, bao dung của mình đã trở thành điểm tựa cho cảm xúc cháy bỏng của thơ Hoàng Cầm. Ông đã viết hàng trăm bài thơ tình đặc sắc trong suốt ba mươi năm trăn trở ấy và cho đến ngày được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn hóa Nghệ thuật năm 2007 (cho hai tập thơ “Bên kia sông Đuống” in năm 1970). và “Những chiếc lá Collot”- in năm 1993).
Hãy đến với tôi – 39A
Khái niệm phố “Hàng Văn” đối với Lý Quốc Sư vẫn đầy ắp trong tôi. Dường như hơn 20 năm qua, trong làng văn học nghệ thuật không ai không nhớ đến Gallery 39A Lý Quốc Sư của họa sĩ tài hoa Lê Thiết Cương. Đây là một địa chỉ văn hóa sớm có tiếng vang trong nước và quốc tế. Phòng tranh 39A có diện tích không lớn nhưng nằm ở vị trí đắc địa, đối diện Nhà thờ Lớn và đền Lý Quốc Sư. Tại đây, họa sĩ Lê Thiết Cương đã tổ chức hàng chục cuộc triển lãm tranh cho bạn bè và cũng là nơi trưng bày nghệ thuật. Anh được đánh giá là nghệ sĩ có nghệ thuật tối giản nhưng tràn đầy cảm xúc trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Họa sĩ Lê Thiết Cương có sức thu hút nhiều văn nghệ sĩ đến với ngôi nhà nghệ thuật của mình. Hầu hết những người nổi tiếng trong lĩnh vực văn hóa ở Hà Nội đều đến đây để nói chuyện và tranh luận với ông về văn học và hội họa. Khi còn trẻ ông đã được nhà thơ Hoàng Cầm tặng bài thơ “Hãy đến với tôi”. Hơn nữa, anh vừa có dự án vẽ hàng chục bức tranh mực nho trên giấy dó với thông điệp Đông Hồ từ cảm hứng thơ Hoàng Cầm. Tôi lững thững đi trên phố trong nắng mơ màng và tưởng tượng người họa sĩ phác những nét vẽ theo câu thơ “Uống nước mắt con nhớ tổ/ Mới rơi chiều nay em ngập hương sen“. Thật là ngon.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm” state=”close”]
Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm
Hình Ảnh về: Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm
Video về: Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm
Wiki về Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm
Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm -
Ấn tượng sâu sắc trong tôi về con phố Lý Quốc Sư (phường Hàng Trống - Hoàn Kiếm - Hà Nội) một thời là hình ảnh của cố nghệ sĩ Trần Vân (Nhà hát kịch Hà Nội). Tôi và anh tôi thường nhậu trên vỉa hè cuối phố vào thời điểm sôi động nhất của năm 1985 khi chính phủ đổi tiền.
Một lần gặp một thiếu nữ gánh cốm đi ngang qua, ông chợt đọc một bài thơ:Em rẽ vào phố chùa/ Minh Không chùm nắng hoa/ Nụ cười em tỏa nắng/ Hương cốm thơm đường". Vì bên đó là nhà anh trong ngõ nhỏ đối diện chùa Lý Quốc Sư.
Phố mang tên chùa - Gió hiu hiu làng xưa
Đây là con phố có lịch sử hình thành hàng nghìn năm theo di tích đền miếu của làng Tiên Thị, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương (1131-thời Lý). Xưa kia, đây là ngôi nhà của thiền sư Nguyễn Minh Không (1065-1141) khi về kinh trị bệnh cho vua. Ông được coi là vị thần y có công chữa khỏi bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được tôn là Quốc Sư, đổi là Lý (Lý Quốc Sư). Ngôi nhà ông ở được lập đền thờ sau khi ông qua đời. Vị trí của chùa vẫn ở chỗ cũ cho đến nay tại số 50 phố Lý Quốc Sư. Sau này, chùa Lý Quốc Sư cũng được hình thành bên cạnh ngôi chùa cổ cùng tên. Đây là di tích quốc gia thờ Phật và ba vị thiền sư Lý Quốc Sư, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Giác Hải.
Góc phố Lý Quốc Sư.
Phố tuy chỉ rộng khoảng 6m nhưng lại nằm trong khu hành chính của quận cổ kính. Vì vậy, phố đã giao cắt với sáu phố là Ngõ Huyện, Chân Cầm, Ấu Triệu, Nhà Thờ, Nhà Chung và Hàng Bông. Rải rác trên phố, ngoài đền và chùa Lý Quốc Sư còn có đền Phạm Ngũ Lão (số nhà 25) và cuối phố còn có chùa Báo Thiên (nay là vị trí Nhà thờ Lớn). Người xưa kể lại một thời nữ sĩ Hồ Xuân Hương mở quán nước ở ngõ Ngõ Huyện. Đồng thời, quán cũng là nơi các Nho sĩ, quan văn đến bàn bạc, so tài cao thấp về chữ nghĩa.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), dinh tri huyện Thọ Xương được dời về khu vực này (di tích còn lại là phố Phủ Doãn). Mãi đến năm 1888, khi nhà Nguyễn nhường đất cho thực dân Pháp, huyện mới bị giải thể. Hình ảnh người thiếu nữ gánh cốm ra phố nơi cố họa sĩ Trần Vân đọc thơ đã là dĩ vãng nhưng còn vương vấn đâu đây:Rung chuông nhà thờ/ Theo dấu chân gót nhỏ/ Cột điện đầu ngõ/ Lá sen xanh gọi mùa/ Tiếng gọi tuổi thơ/ Lời kinh hòa nhịp, tiếng xạ hương/ Cây đa xòe búp đỏ / Gió hiu hiu làng xưa“.
Lý Quốc Sư còn được gọi là phố "Hàng Văn" với phố Hàng Trống. Tôi có dịp gặp ông Nguyễn Việt Hùng ở số 3 Lý Quốc Sư, một người đã sinh ra và lớn lên 60 năm trên con phố này. Anh nhớ cha anh kể lại, số nhà 24-26 là trường Trung Bắc do chí sĩ Nguyễn Văn Vĩnh thành lập năm 1920. Nhưng ông Vĩnh bị chính quyền Pháp xiết nợ nên phải bán cho nhà in Ngô Từ. Mùa hè. Ông chủ nhà in Ngô Tử Hạ đã có nhiều hoạt động có ích cho xã hội trong thời kỳ kháng chiến. Đây là nhà in đã quyên góp hàng tấn chì để in truyền đơn của Việt Minh. Không chỉ vậy, nơi đây còn in những đồng bạc đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945). Sau đó, ông còn hiến hàng nghìn mét đất cho chính quyền mới ở phố Lý Quốc Sư, Ngõ Huyện, Hàng Bông.
Sau khi cách mạng thành công, ông Ngô Tử Hạ là đại biểu cao tuổi nhất của Quốc hội khóa đầu tiên của nước ta. Ông cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử tham gia đoàn đàm phán với vua Bảo Đại để cử hành nghi lễ thoái vị. Nhà in Ngô Tử Hạ hoạt động và tồn tại đến năm 1955 thì liên doanh, liên kết thành Công ty in Thống Nhất. Ông Nguyễn Việt Hùng cũng cho biết, nhà in này đã phối hợp với nhà sách Tân Việt (ở số 29) xuất bản nhiều sách văn, thơ thời tiền chiến. Đặc biệt, cùng với các tác phẩm văn học chữ Hán, nhà sách Tân Việt còn có tạp chí đặc biệt in tác phẩm của Nguyễn Tuân, Trương Tửu, Đinh Hùng... và sách triết học của Nguyễn Đình Thi.
Ngày mai cho dù có bao giờ
Nhắc đến ví von phố Lý Quốc Sư là phố “Hàng Văn” cũng có lý khi trên phố còn có những địa chỉ văn hóa độc đáo, sôi động khác để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống hiện đại. Trước hết là ngôi nhà số 43 nơi cố nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2010) đã sống và mất tại đây. Chính tại ngôi nhà này, sâu trong con ngõ thân thương này, ông đã bắt đầu thảo những bài thơ tình như “Bông Lao Điếu”, “Tiếng gọi đôi lứa”, “Ba cây cúc”, “Thời gian tiễn đưa”, “Yêu em "...
Có thể coi phố Lý Quốc Sư là một mốc son cho sự nghiệp thơ ca của Hoàng Cầm sau vở “Kiều Loan” (kịch thơ-1942) và bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Việt Bắc tháng 4-1948). Đây là nơi nhà thơ sống từ năm 1955 cho đến khi qua đời (2010). Nỗi nhớ “Bông Liễu” hình như còn lang thang đâu đây. Đó là vào một đêm trằn trọc, ông thức đến canh ba, bỗng nghe có người đọc mấy câu thơ văng vẳng trong tâm thức nửa mê nửa tỉnh của mình:Váy Đình Bảng buông cửa võng... ". Thế đấy và nhà thơ phiêu du trong giấc mộng thơ. Anh ngồi cầm bút hờ hững với mối tình câm tuổi 13 với "Em gái xanh". Những vần thơ thiên mệnh huyền nhiệm tuôn chảy từ mầm hạnh phúc hư ảo: "Nàng lang thang đi tìm/Chiều tối/Cọng rơm/Nàng nói/Lá lá tìm ai/Từ nay em gọi chồng... ".
Đền thờ Lý Quốc Sư.
Tôi nhớ có lần cùng người bạn nhậu món đậu rán ở số nhà 43 do nhà thơ Hoàng Cầm bán. Khi ngà ngà mùi rượu làng Vân, bạn tôi rủ Hoàng Cầm đọc thơ. Vì ai cũng từng nghe giọng ngâm thơ của Hoàng Cầm ngọt ngào, lôi cuốn. Để chiều lòng khách, Hoàng Cầm cao hứng vì thấy bạn tôi cứ nhắm mắt chờ đợi. Quả thật âm sắc ấm áp dịu dàng đã trình bày những vần thơ rưng rưng. Đó là những câu hát trong bài “Xa…” (Tháng 7-1985) với phụ đề “Khóc LHY”.
Đây là tên viết tắt của người vợ thứ ba của anh, người đẹp Lê Hoàng Yến. Bà sống với chồng ba mươi năm trước khi lìa cõi tạm (1955-1985). Có thể nói, người đẹp Hoàng Yến chính là cứu tinh của đời thơ Hoàng Cầm sau khi ông dính líu một thời gian trong vụ án Nhân Bản Giải Phóng (1956). Các tập thơ “Tiếng hát quan họ” (1956), “Về Kinh Bắc” (Xuất bản 1959, tái bản 1994) và “Bên kia sông Đuống” (1970, tái bản 1993) là kết quả của “Sống ở đời”. sự cần thiết. có một trái tim” Trịnh Công Sơn của mối tình hạnh phúc thứ ba này.
Trong những năm tháng gian khổ, nhà thơ như trao thân mình cho kẻ cô đơn. Nhưng người vợ đã cứu sống chồng bằng tấm lòng yêu thương, bao dung của mình đã trở thành điểm tựa cho cảm xúc cháy bỏng của thơ Hoàng Cầm. Ông đã viết hàng trăm bài thơ tình đặc sắc trong suốt ba mươi năm trăn trở ấy và cho đến ngày được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn hóa Nghệ thuật năm 2007 (cho hai tập thơ “Bên kia sông Đuống” in năm 1970). và “Những chiếc lá Collot”- in năm 1993).
Hãy đến với tôi – 39A
Khái niệm phố “Hàng Văn” đối với Lý Quốc Sư vẫn đầy ắp trong tôi. Dường như hơn 20 năm qua, trong làng văn học nghệ thuật không ai không nhớ đến Gallery 39A Lý Quốc Sư của họa sĩ tài hoa Lê Thiết Cương. Đây là một địa chỉ văn hóa sớm có tiếng vang trong nước và quốc tế. Phòng tranh 39A có diện tích không lớn nhưng nằm ở vị trí đắc địa, đối diện Nhà thờ Lớn và đền Lý Quốc Sư. Tại đây, họa sĩ Lê Thiết Cương đã tổ chức hàng chục cuộc triển lãm tranh cho bạn bè và cũng là nơi trưng bày nghệ thuật. Anh được đánh giá là nghệ sĩ có nghệ thuật tối giản nhưng tràn đầy cảm xúc trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Họa sĩ Lê Thiết Cương có sức thu hút nhiều văn nghệ sĩ đến với ngôi nhà nghệ thuật của mình. Hầu hết những người nổi tiếng trong lĩnh vực văn hóa ở Hà Nội đều đến đây để nói chuyện và tranh luận với ông về văn học và hội họa. Khi còn trẻ ông đã được nhà thơ Hoàng Cầm tặng bài thơ “Hãy đến với tôi”. Hơn nữa, anh vừa có dự án vẽ hàng chục bức tranh mực nho trên giấy dó với thông điệp Đông Hồ từ cảm hứng thơ Hoàng Cầm. Tôi lững thững đi trên phố trong nắng mơ màng và tưởng tượng người họa sĩ phác những nét vẽ theo câu thơ “Uống nước mắt con nhớ tổ/ Mới rơi chiều nay em ngập hương sen". Thật là ngon.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Ấn tượng sâu sắc trong tôi về con phố Lý Quốc Sư (phường Hàng Trống – Hoàn Kiếm – Hà Nội) một thời là hình ảnh của cố nghệ sĩ Trần Vân (Nhà hát kịch Hà Nội). Tôi và anh tôi thường nhậu trên vỉa hè cuối phố vào thời điểm sôi động nhất của năm 1985 khi chính phủ đổi tiền.
Một lần gặp một thiếu nữ gánh cốm đi ngang qua, ông chợt đọc một bài thơ:Em rẽ vào phố chùa/ Minh Không chùm nắng hoa/ Nụ cười em tỏa nắng/ Hương cốm thơm đường“. Vì bên đó là nhà anh trong ngõ nhỏ đối diện chùa Lý Quốc Sư.
Phố mang tên chùa – Gió hiu hiu làng xưa
Đây là con phố có lịch sử hình thành hàng nghìn năm theo di tích đền miếu của làng Tiên Thị, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương (1131-thời Lý). Xưa kia, đây là ngôi nhà của thiền sư Nguyễn Minh Không (1065-1141) khi về kinh trị bệnh cho vua. Ông được coi là vị thần y có công chữa khỏi bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được tôn là Quốc Sư, đổi là Lý (Lý Quốc Sư). Ngôi nhà ông ở được lập đền thờ sau khi ông qua đời. Vị trí của chùa vẫn ở chỗ cũ cho đến nay tại số 50 phố Lý Quốc Sư. Sau này, chùa Lý Quốc Sư cũng được hình thành bên cạnh ngôi chùa cổ cùng tên. Đây là di tích quốc gia thờ Phật và ba vị thiền sư Lý Quốc Sư, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Giác Hải.
Góc phố Lý Quốc Sư.
Phố tuy chỉ rộng khoảng 6m nhưng lại nằm trong khu hành chính của quận cổ kính. Vì vậy, phố đã giao cắt với sáu phố là Ngõ Huyện, Chân Cầm, Ấu Triệu, Nhà Thờ, Nhà Chung và Hàng Bông. Rải rác trên phố, ngoài đền và chùa Lý Quốc Sư còn có đền Phạm Ngũ Lão (số nhà 25) và cuối phố còn có chùa Báo Thiên (nay là vị trí Nhà thờ Lớn). Người xưa kể lại một thời nữ sĩ Hồ Xuân Hương mở quán nước ở ngõ Ngõ Huyện. Đồng thời, quán cũng là nơi các Nho sĩ, quan văn đến bàn bạc, so tài cao thấp về chữ nghĩa.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), dinh tri huyện Thọ Xương được dời về khu vực này (di tích còn lại là phố Phủ Doãn). Mãi đến năm 1888, khi nhà Nguyễn nhường đất cho thực dân Pháp, huyện mới bị giải thể. Hình ảnh người thiếu nữ gánh cốm ra phố nơi cố họa sĩ Trần Vân đọc thơ đã là dĩ vãng nhưng còn vương vấn đâu đây:Rung chuông nhà thờ/ Theo dấu chân gót nhỏ/ Cột điện đầu ngõ/ Lá sen xanh gọi mùa/ Tiếng gọi tuổi thơ/ Lời kinh hòa nhịp, tiếng xạ hương/ Cây đa xòe búp đỏ / Gió hiu hiu làng xưa“.
Lý Quốc Sư còn được gọi là phố “Hàng Văn” với phố Hàng Trống. Tôi có dịp gặp ông Nguyễn Việt Hùng ở số 3 Lý Quốc Sư, một người đã sinh ra và lớn lên 60 năm trên con phố này. Anh nhớ cha anh kể lại, số nhà 24-26 là trường Trung Bắc do chí sĩ Nguyễn Văn Vĩnh thành lập năm 1920. Nhưng ông Vĩnh bị chính quyền Pháp xiết nợ nên phải bán cho nhà in Ngô Từ. Mùa hè. Ông chủ nhà in Ngô Tử Hạ đã có nhiều hoạt động có ích cho xã hội trong thời kỳ kháng chiến. Đây là nhà in đã quyên góp hàng tấn chì để in truyền đơn của Việt Minh. Không chỉ vậy, nơi đây còn in những đồng bạc đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945). Sau đó, ông còn hiến hàng nghìn mét đất cho chính quyền mới ở phố Lý Quốc Sư, Ngõ Huyện, Hàng Bông.
Sau khi cách mạng thành công, ông Ngô Tử Hạ là đại biểu cao tuổi nhất của Quốc hội khóa đầu tiên của nước ta. Ông cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử tham gia đoàn đàm phán với vua Bảo Đại để cử hành nghi lễ thoái vị. Nhà in Ngô Tử Hạ hoạt động và tồn tại đến năm 1955 thì liên doanh, liên kết thành Công ty in Thống Nhất. Ông Nguyễn Việt Hùng cũng cho biết, nhà in này đã phối hợp với nhà sách Tân Việt (ở số 29) xuất bản nhiều sách văn, thơ thời tiền chiến. Đặc biệt, cùng với các tác phẩm văn học chữ Hán, nhà sách Tân Việt còn có tạp chí đặc biệt in tác phẩm của Nguyễn Tuân, Trương Tửu, Đinh Hùng… và sách triết học của Nguyễn Đình Thi.
Ngày mai cho dù có bao giờ
Nhắc đến ví von phố Lý Quốc Sư là phố “Hàng Văn” cũng có lý khi trên phố còn có những địa chỉ văn hóa độc đáo, sôi động khác để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống hiện đại. Trước hết là ngôi nhà số 43 nơi cố nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2010) đã sống và mất tại đây. Chính tại ngôi nhà này, sâu trong con ngõ thân thương này, ông đã bắt đầu thảo những bài thơ tình như “Bông Lao Điếu”, “Tiếng gọi đôi lứa”, “Ba cây cúc”, “Thời gian tiễn đưa”, “Yêu em “…
Có thể coi phố Lý Quốc Sư là một mốc son cho sự nghiệp thơ ca của Hoàng Cầm sau vở “Kiều Loan” (kịch thơ-1942) và bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Việt Bắc tháng 4-1948). Đây là nơi nhà thơ sống từ năm 1955 cho đến khi qua đời (2010). Nỗi nhớ “Bông Liễu” hình như còn lang thang đâu đây. Đó là vào một đêm trằn trọc, ông thức đến canh ba, bỗng nghe có người đọc mấy câu thơ văng vẳng trong tâm thức nửa mê nửa tỉnh của mình:Váy Đình Bảng buông cửa võng… “. Thế đấy và nhà thơ phiêu du trong giấc mộng thơ. Anh ngồi cầm bút hờ hững với mối tình câm tuổi 13 với “Em gái xanh”. Những vần thơ thiên mệnh huyền nhiệm tuôn chảy từ mầm hạnh phúc hư ảo: “Nàng lang thang đi tìm/Chiều tối/Cọng rơm/Nàng nói/Lá lá tìm ai/Từ nay em gọi chồng… “.
Đền thờ Lý Quốc Sư.
Tôi nhớ có lần cùng người bạn nhậu món đậu rán ở số nhà 43 do nhà thơ Hoàng Cầm bán. Khi ngà ngà mùi rượu làng Vân, bạn tôi rủ Hoàng Cầm đọc thơ. Vì ai cũng từng nghe giọng ngâm thơ của Hoàng Cầm ngọt ngào, lôi cuốn. Để chiều lòng khách, Hoàng Cầm cao hứng vì thấy bạn tôi cứ nhắm mắt chờ đợi. Quả thật âm sắc ấm áp dịu dàng đã trình bày những vần thơ rưng rưng. Đó là những câu hát trong bài “Xa…” (Tháng 7-1985) với phụ đề “Khóc LHY”.
Đây là tên viết tắt của người vợ thứ ba của anh, người đẹp Lê Hoàng Yến. Bà sống với chồng ba mươi năm trước khi lìa cõi tạm (1955-1985). Có thể nói, người đẹp Hoàng Yến chính là cứu tinh của đời thơ Hoàng Cầm sau khi ông dính líu một thời gian trong vụ án Nhân Bản Giải Phóng (1956). Các tập thơ “Tiếng hát quan họ” (1956), “Về Kinh Bắc” (Xuất bản 1959, tái bản 1994) và “Bên kia sông Đuống” (1970, tái bản 1993) là kết quả của “Sống ở đời”. sự cần thiết. có một trái tim” Trịnh Công Sơn của mối tình hạnh phúc thứ ba này.
Trong những năm tháng gian khổ, nhà thơ như trao thân mình cho kẻ cô đơn. Nhưng người vợ đã cứu sống chồng bằng tấm lòng yêu thương, bao dung của mình đã trở thành điểm tựa cho cảm xúc cháy bỏng của thơ Hoàng Cầm. Ông đã viết hàng trăm bài thơ tình đặc sắc trong suốt ba mươi năm trăn trở ấy và cho đến ngày được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn hóa Nghệ thuật năm 2007 (cho hai tập thơ “Bên kia sông Đuống” in năm 1970). và “Những chiếc lá Collot”- in năm 1993).
Hãy đến với tôi – 39A
Khái niệm phố “Hàng Văn” đối với Lý Quốc Sư vẫn đầy ắp trong tôi. Dường như hơn 20 năm qua, trong làng văn học nghệ thuật không ai không nhớ đến Gallery 39A Lý Quốc Sư của họa sĩ tài hoa Lê Thiết Cương. Đây là một địa chỉ văn hóa sớm có tiếng vang trong nước và quốc tế. Phòng tranh 39A có diện tích không lớn nhưng nằm ở vị trí đắc địa, đối diện Nhà thờ Lớn và đền Lý Quốc Sư. Tại đây, họa sĩ Lê Thiết Cương đã tổ chức hàng chục cuộc triển lãm tranh cho bạn bè và cũng là nơi trưng bày nghệ thuật. Anh được đánh giá là nghệ sĩ có nghệ thuật tối giản nhưng tràn đầy cảm xúc trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Họa sĩ Lê Thiết Cương có sức thu hút nhiều văn nghệ sĩ đến với ngôi nhà nghệ thuật của mình. Hầu hết những người nổi tiếng trong lĩnh vực văn hóa ở Hà Nội đều đến đây để nói chuyện và tranh luận với ông về văn học và hội họa. Khi còn trẻ ông đã được nhà thơ Hoàng Cầm tặng bài thơ “Hãy đến với tôi”. Hơn nữa, anh vừa có dự án vẽ hàng chục bức tranh mực nho trên giấy dó với thông điệp Đông Hồ từ cảm hứng thơ Hoàng Cầm. Tôi lững thững đi trên phố trong nắng mơ màng và tưởng tượng người họa sĩ phác những nét vẽ theo câu thơ “Uống nước mắt con nhớ tổ/ Mới rơi chiều nay em ngập hương sen“. Thật là ngon.
[/box]
#Đòn #gánh #cong #vai #phố #Tác #giả #Vương #Tâm
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Đòn #gánh #cong #vai #phố #Tác #giả #Vương #Tâm
Trả lời