Đầu tiên.
Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải (Quảng Trị) – bị chia đôi. Đó cũng là ranh giới tạm thời chia nước ta thành hai khu tập trung quân sự.
Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc, Đảng Cộng sản lãnh đạo miền Bắc đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; Từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam, dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ, một chính phủ mới được thành lập: chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong suốt hai mươi năm đất nước bị chia cắt, đồng bào hai miền Nam Bắc không tránh khỏi nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, chiến tranh kéo dài, sự xáo trộn dân cư, sự pha trộn văn hóa các vùng miền và sự can thiệp sâu rộng của đế quốc Mỹ vào miền Nam nước ta đã khiến đời sống của các em có nhiều thay đổi lớn. Mọi người.
Hình thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, văn học đô thị Nam Bộ (văn học vùng tạm chiếm Nam Bộ) cùng tồn tại với văn học giải phóng miền Nam và văn học xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Bộ phận văn học này tiếp tục phân nhánh, phân nhánh thành nhiều dòng khác như: văn học yêu nước, tiến bộ; văn chương thoát ly, hưởng thụ; văn học đồi trụy; Trong đó, văn học yêu nước và tiến bộ ở đô thị Nam Bộ được quan tâm hơn cả, được nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá tổng hợp qua công trình tâm huyết của mình: Nhìn lại một chặng đường văn học. Nhà nghiên cứu Cao Huy Khánh đã chia các tác giả văn xuôi đô thị Nam Bộ thành các nhóm nhà văn như: Nhóm con người Việt Nam trong đó có Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ…; Nhóm Ý kiến có Vũ Khắc Khoan, Mộ Độ…; Nhóm Văn hóa ngày nay trong đó có Nhật Linh, Nguyễn Thị Vinh…; Nhóm nhân loại trong đó có Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Sơn Nam…; Nhóm Bách khoa toàn thư có Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Phan Du…; Nhóm Quốc gia, Đối diện, Bài thuyết trình trong đó có Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Nguyễn Ngọc Sơn… Dần dần, những tác phẩm văn học thuộc dòng phản cách mạng, đồi trụy, khiêu dâm đã bị đào thải khỏi đời sống văn học hoặc bị “xiềng xích” bởi những tư duy sai lầm. văn học thoát ly (không có tính chất chống phá cách mạng, xuyên tạc văn hóa tốt đẹp của dân tộc) được nhìn nhận lại.
2.
Đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21 là sự trở lại của văn học thành thị Nam Bộ. Hành trình này được đánh dấu bằng việc “tìm về” và đánh giá lại giá trị của một số tác phẩm hoặc gương mặt tác giả giai đoạn 1954-1975. Theo nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn, “Sự tái xuất hiện của một số hiện tượng văn học đô thị miền Nam 1954-1975 cũng cho chúng ta nhiều hy vọng, nhất là hy vọng về sự tồn tại trọn vẹn và đáng tin cậy của một nền văn học dân tộc đích thực.“. Có thể nói, đến nay, văn học đô thị Nam Bộ đã cho thấy những tín hiệu trở lại mạnh mẽ và đầy hứa hẹn. Các nhà nghiên cứu văn học đã “lội ngược dòng” về quá khứ để tìm kiếm, đánh giá lại những tác phẩm từng hứng chịu búa rìu dư luận. , đã bị một bộ phận độc giả hiểu lầm, thậm chí bị gán cho nó 3 từ: “rác văn chương”. sáng ngày 19/04/2021 tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra tọa đàm khoa học với chủ đề: “Sự trở lại của văn học đô thị Nam Bộ: Trường hợp Nguyễn Thị Hoàng” đã diễn ra thu hút sự quan tâm của giới chuyên môn và báo chí trong nước. Nguyễn Thị Hoàng không phải là cái tên xa lạ nổi lên trong giai đoạn 1954-1975. Sự xuất hiện của chị ở giai đoạn này như một cơn sóng lớn làm rung chuyển cả biển văn chương miền Nam, với tác phẩm đầu tay được đăng nhiều kỳ trên Tạp chí Bách khoa: vòng đeo tay học sinh (ký bút danh Hoàng Đông Phương). Năm 1966, tiểu thuyết vòng đeo tay học sinh được in thành sách và phổ biến rộng rãi khắp miền Nam Việt Nam, vừa được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ, vừa gây ra những tranh cãi không ngớt. Sau một thời gian vắng bóng nhường chỗ cho tác phẩm của các thế hệ tác giả sau này, thiết nghĩ vòng đeo tay học sinh (và 4 tiểu thuyết khác của Nguyễn Thị Hoàng sẽ mãi là dĩ vãng. Nhưng không, vào năm 2021, tác phẩm này sẽ lại xuất hiện trở lại, trong một diện mạo mới và sự đón nhận của độc giả cũng trọn vẹn. Mối tình của cô giáo Trâm và cậu học trò tên Minh , sự trỗi dậy mạnh mẽ của bản năng, khát vọng, thậm chí cả ham muốn tình dục của người phụ nữ đã trở thành chuyện bình thường trong xã hội ngày nay, không ngoa khi nói đây là “phát súng” vang dội để các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm, định vị lại giá trị của văn học đô thị Nam Bộ trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam hiện nay.
3.
Nhiều người đã đặt vấn đề: Tại sao những tác phẩm hàng trăm năm vẫn được in lại và phổ biến rộng rãi trong đời sống văn học nước nhà, trong khi những tác phẩm văn học đô thị Nam Bộ (nhất là văn học yêu nước, tiến bộ) ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ lại là vắng văn chương như vậy? Nhạy cảm, động chạm đến vấn đề chính trị, bị hiểu sai, tránh khơi dậy một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc… là những lý giải chưa thực sự thuyết phục nhưng phần nào xoa dịu dư luận. . Tìm trên tủ sách những tác giả đã góp phần định hình diện mạo văn học đô thị miền Nam 1954-1975, ngoài những cái tên như Sơn Nam (Hương rừng Cà Mau và những câu chuyện khác, Vẽ đường chân trời & đỗ quyên xuống đất, bà Hớn…), Bình Nguyên Lộc (hương vị quê hương, Mưa nhớ tằm, Làm, Những bước lang thang trên vỉa hè của người đàn ông Bình Nguyên Lộc…), Nguyễn Thị Hoàng (vòng đeo tay học sinh, Đã một ngày rồi, Tình yêu trong tù, tuần trăng mật màu xanh, Tiếng chuông gọi người yêu về…), Nguyễn Thị Thụy Vũ (Động vật hoang dã, Lao vào lửa, khung rêu, Thắp nhang đêm khuya, bắn pháo hoa, Như trời lạnh…). Trong khi đó, vẫn có nhiều tên tuổi sáng tác say sưa, say mê, góp tiếng nói phơi bày hiện thực đen tối của miền Nam trước 1975, ngợi ca hình tượng người chiến sĩ cách mạng. , lên án sự tàn ác của lính Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa, kêu gọi đấu tranh, tìm về cội nguồn dân tộc. Đó là Trần Duy Phiên, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Quang Long, Võ Quê, Ngụy Ngu, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Vũ Hạnh, Võ Trường Chinh, Lý Chánh Trung… truyện ngắn từng là linh hồn của văn học yêu nước ở đô thị Nam Bộ như Mùa xuân én bay về (NXB Cửu Long, 1986), Bài hát của những người đến (NXB Trẻ, 1990), Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (NXB Trẻ, 1997), Viết lên đường chiến đấu (NXB Thuận Hóa, 2005)… không còn tái bản. Số sách còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay và được bảo quản rất cẩn thận tại các Thư viện Quốc gia, Thư viện Tỉnh/Thành phố. Sau nhiều năm nỗ lực nghiên cứu, sưu tầm, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã tập hợp được hơn 40 tác giả trong công trình. Nhìn lại một chặng đường văn học (Nxb Tổng hợp, 2000). Đây được coi là công trình tham khảo hiếm hoi về văn học đô thị Nam Bộ (bộ phận văn học yêu nước và tiến bộ). Tuy nhiên, hiện tại cuốn sách này mới chỉ được phát hành dưới dạng sách điện tử, chưa có động thái in tái bản và phát hành lại dưới dạng sách giấy.
4.
Văn học đô thị miền Nam 1954-1975 vẫn là một bộ môn kén người đọc, thậm chí ít hoặc không dạy ở bậc phổ thông, cao đẳng, đại học. Tài liệu tham khảo về văn học đô thị cũng rất hiếm. Những năm gần đây ở nước ta không có nhiều nhà nghiên cứu, học giả nghiên cứu về văn học đô thị. Từ Bắc vào Nam, có thể kể vài cái tên đang âm thầm nghiên cứu dòng văn học này như Trần Đình Sử, Phạm Xuân Nguyên, Trần Hữu Tá, Nguyễn Thị Thu Trang, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Lam Điền, Phạm Thanh Hùng, Bùi Thanh Thảo… Sản phẩm của họ là những công trình chuyên khảo, những bài báo có giá trị, những bài báo khoa học đăng từ trong nước đến quốc tế. Không ngoa khi nói rằng những nhà nghiên cứu, học giả này đang góp phần gìn giữ những tinh hoa của một giai đoạn văn học tồn tại trong lịch sử thăng trầm của đất nước. Về tác giả của văn học đô thị Nam Bộ, cho đến thời điểm hiện tại, một số người vẫn miệt mài sáng tác và đã có những tác phẩm thuộc thể loại tản văn hoặc báo chí, ghi chép đăng trên báo, tạp chí. Chẳng hạn như Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ… Tuy nhiên, dù những tác phẩm sau này của họ có giá trị đến đâu, khi chúng ta nhắc đến những cái tên này, Chúng ta còn nhớ họ từng là những gương mặt nổi bật của văn học đô thị miền Nam những năm 1954-1975. Có thể nói, việc định vị lại văn học đô thị Nam Bộ trong bối cảnh hôm nay cũng chính là cách chúng ta “tìm về dân tộc” – một nội dung quan trọng của bộ phận văn học yêu nước và tiến bộ 1954-1975 – trong thời đại mới.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy” state=”close”]
Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy
Hình Ảnh về: Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy
Video về: Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy
Wiki về Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy
Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy -
Đầu tiên.
Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải (Quảng Trị) - bị chia đôi. Đó cũng là ranh giới tạm thời chia nước ta thành hai khu tập trung quân sự.
Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc, Đảng Cộng sản lãnh đạo miền Bắc đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; Từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam, dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ, một chính phủ mới được thành lập: chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong suốt hai mươi năm đất nước bị chia cắt, đồng bào hai miền Nam Bắc không tránh khỏi nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, chiến tranh kéo dài, sự xáo trộn dân cư, sự pha trộn văn hóa các vùng miền và sự can thiệp sâu rộng của đế quốc Mỹ vào miền Nam nước ta đã khiến đời sống của các em có nhiều thay đổi lớn. Mọi người.
Hình thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, văn học đô thị Nam Bộ (văn học vùng tạm chiếm Nam Bộ) cùng tồn tại với văn học giải phóng miền Nam và văn học xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Bộ phận văn học này tiếp tục phân nhánh, phân nhánh thành nhiều dòng khác như: văn học yêu nước, tiến bộ; văn chương thoát ly, hưởng thụ; văn học đồi trụy; Trong đó, văn học yêu nước và tiến bộ ở đô thị Nam Bộ được quan tâm hơn cả, được nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá tổng hợp qua công trình tâm huyết của mình: Nhìn lại một chặng đường văn học. Nhà nghiên cứu Cao Huy Khánh đã chia các tác giả văn xuôi đô thị Nam Bộ thành các nhóm nhà văn như: Nhóm con người Việt Nam trong đó có Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ…; Nhóm Ý kiến có Vũ Khắc Khoan, Mộ Độ…; Nhóm Văn hóa ngày nay trong đó có Nhật Linh, Nguyễn Thị Vinh…; Nhóm nhân loại trong đó có Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Sơn Nam…; Nhóm Bách khoa toàn thư có Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Phan Du...; Nhóm Quốc gia, Đối diện, Bài thuyết trình trong đó có Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Nguyễn Ngọc Sơn... Dần dần, những tác phẩm văn học thuộc dòng phản cách mạng, đồi trụy, khiêu dâm đã bị đào thải khỏi đời sống văn học hoặc bị “xiềng xích” bởi những tư duy sai lầm. văn học thoát ly (không có tính chất chống phá cách mạng, xuyên tạc văn hóa tốt đẹp của dân tộc) được nhìn nhận lại.
2.
Đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21 là sự trở lại của văn học thành thị Nam Bộ. Hành trình này được đánh dấu bằng việc “tìm về” và đánh giá lại giá trị của một số tác phẩm hoặc gương mặt tác giả giai đoạn 1954-1975. Theo nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn, "Sự tái xuất hiện của một số hiện tượng văn học đô thị miền Nam 1954-1975 cũng cho chúng ta nhiều hy vọng, nhất là hy vọng về sự tồn tại trọn vẹn và đáng tin cậy của một nền văn học dân tộc đích thực.". Có thể nói, đến nay, văn học đô thị Nam Bộ đã cho thấy những tín hiệu trở lại mạnh mẽ và đầy hứa hẹn. Các nhà nghiên cứu văn học đã "lội ngược dòng" về quá khứ để tìm kiếm, đánh giá lại những tác phẩm từng hứng chịu búa rìu dư luận. , đã bị một bộ phận độc giả hiểu lầm, thậm chí bị gán cho nó 3 từ: “rác văn chương”. sáng ngày 19/04/2021 tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra tọa đàm khoa học với chủ đề: “Sự trở lại của văn học đô thị Nam Bộ: Trường hợp Nguyễn Thị Hoàng” đã diễn ra thu hút sự quan tâm của giới chuyên môn và báo chí trong nước. Nguyễn Thị Hoàng không phải là cái tên xa lạ nổi lên trong giai đoạn 1954-1975. Sự xuất hiện của chị ở giai đoạn này như một cơn sóng lớn làm rung chuyển cả biển văn chương miền Nam, với tác phẩm đầu tay được đăng nhiều kỳ trên Tạp chí Bách khoa: vòng đeo tay học sinh (ký bút danh Hoàng Đông Phương). Năm 1966, tiểu thuyết vòng đeo tay học sinh được in thành sách và phổ biến rộng rãi khắp miền Nam Việt Nam, vừa được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ, vừa gây ra những tranh cãi không ngớt. Sau một thời gian vắng bóng nhường chỗ cho tác phẩm của các thế hệ tác giả sau này, thiết nghĩ vòng đeo tay học sinh (và 4 tiểu thuyết khác của Nguyễn Thị Hoàng sẽ mãi là dĩ vãng. Nhưng không, vào năm 2021, tác phẩm này sẽ lại xuất hiện trở lại, trong một diện mạo mới và sự đón nhận của độc giả cũng trọn vẹn. Mối tình của cô giáo Trâm và cậu học trò tên Minh , sự trỗi dậy mạnh mẽ của bản năng, khát vọng, thậm chí cả ham muốn tình dục của người phụ nữ đã trở thành chuyện bình thường trong xã hội ngày nay, không ngoa khi nói đây là “phát súng” vang dội để các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm, định vị lại giá trị của văn học đô thị Nam Bộ trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam hiện nay.
3.
Nhiều người đã đặt vấn đề: Tại sao những tác phẩm hàng trăm năm vẫn được in lại và phổ biến rộng rãi trong đời sống văn học nước nhà, trong khi những tác phẩm văn học đô thị Nam Bộ (nhất là văn học yêu nước, tiến bộ) ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ lại là vắng văn chương như vậy? Nhạy cảm, động chạm đến vấn đề chính trị, bị hiểu sai, tránh khơi dậy một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc... là những lý giải chưa thực sự thuyết phục nhưng phần nào xoa dịu dư luận. . Tìm trên tủ sách những tác giả đã góp phần định hình diện mạo văn học đô thị miền Nam 1954-1975, ngoài những cái tên như Sơn Nam (Hương rừng Cà Mau và những câu chuyện khác, Vẽ đường chân trời & đỗ quyên xuống đất, bà Hớn…), Bình Nguyên Lộc (hương vị quê hương, Mưa nhớ tằm, Làm, Những bước lang thang trên vỉa hè của người đàn ông Bình Nguyên Lộc…), Nguyễn Thị Hoàng (vòng đeo tay học sinh, Đã một ngày rồi, Tình yêu trong tù, tuần trăng mật màu xanh, Tiếng chuông gọi người yêu về…), Nguyễn Thị Thụy Vũ (Động vật hoang dã, Lao vào lửa, khung rêu, Thắp nhang đêm khuya, bắn pháo hoa, Như trời lạnh…). Trong khi đó, vẫn có nhiều tên tuổi sáng tác say sưa, say mê, góp tiếng nói phơi bày hiện thực đen tối của miền Nam trước 1975, ngợi ca hình tượng người chiến sĩ cách mạng. , lên án sự tàn ác của lính Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa, kêu gọi đấu tranh, tìm về cội nguồn dân tộc. Đó là Trần Duy Phiên, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Quang Long, Võ Quê, Ngụy Ngu, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Vũ Hạnh, Võ Trường Chinh, Lý Chánh Trung... truyện ngắn từng là linh hồn của văn học yêu nước ở đô thị Nam Bộ như Mùa xuân én bay về (NXB Cửu Long, 1986), Bài hát của những người đến (NXB Trẻ, 1990), Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (NXB Trẻ, 1997), Viết lên đường chiến đấu (NXB Thuận Hóa, 2005)… không còn tái bản. Số sách còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay và được bảo quản rất cẩn thận tại các Thư viện Quốc gia, Thư viện Tỉnh/Thành phố. Sau nhiều năm nỗ lực nghiên cứu, sưu tầm, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã tập hợp được hơn 40 tác giả trong công trình. Nhìn lại một chặng đường văn học (Nxb Tổng hợp, 2000). Đây được coi là công trình tham khảo hiếm hoi về văn học đô thị Nam Bộ (bộ phận văn học yêu nước và tiến bộ). Tuy nhiên, hiện tại cuốn sách này mới chỉ được phát hành dưới dạng sách điện tử, chưa có động thái in tái bản và phát hành lại dưới dạng sách giấy.
4.
Văn học đô thị miền Nam 1954-1975 vẫn là một bộ môn kén người đọc, thậm chí ít hoặc không dạy ở bậc phổ thông, cao đẳng, đại học. Tài liệu tham khảo về văn học đô thị cũng rất hiếm. Những năm gần đây ở nước ta không có nhiều nhà nghiên cứu, học giả nghiên cứu về văn học đô thị. Từ Bắc vào Nam, có thể kể vài cái tên đang âm thầm nghiên cứu dòng văn học này như Trần Đình Sử, Phạm Xuân Nguyên, Trần Hữu Tá, Nguyễn Thị Thu Trang, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Lam Điền, Phạm Thanh Hùng, Bùi Thanh Thảo... Sản phẩm của họ là những công trình chuyên khảo, những bài báo có giá trị, những bài báo khoa học đăng từ trong nước đến quốc tế. Không ngoa khi nói rằng những nhà nghiên cứu, học giả này đang góp phần gìn giữ những tinh hoa của một giai đoạn văn học tồn tại trong lịch sử thăng trầm của đất nước. Về tác giả của văn học đô thị Nam Bộ, cho đến thời điểm hiện tại, một số người vẫn miệt mài sáng tác và đã có những tác phẩm thuộc thể loại tản văn hoặc báo chí, ghi chép đăng trên báo, tạp chí. Chẳng hạn như Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ... Tuy nhiên, dù những tác phẩm sau này của họ có giá trị đến đâu, khi chúng ta nhắc đến những cái tên này, Chúng ta còn nhớ họ từng là những gương mặt nổi bật của văn học đô thị miền Nam những năm 1954-1975. Có thể nói, việc định vị lại văn học đô thị Nam Bộ trong bối cảnh hôm nay cũng chính là cách chúng ta “tìm về dân tộc” - một nội dung quan trọng của bộ phận văn học yêu nước và tiến bộ 1954-1975 - trong thời đại mới.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” font-size: 32px; font-family: ‘times new roman’, times, serif; color: #ff0000;”>Đầu tiên.
Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải (Quảng Trị) – bị chia đôi. Đó cũng là ranh giới tạm thời chia nước ta thành hai khu tập trung quân sự.
Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc, Đảng Cộng sản lãnh đạo miền Bắc đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; Từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam, dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ, một chính phủ mới được thành lập: chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong suốt hai mươi năm đất nước bị chia cắt, đồng bào hai miền Nam Bắc không tránh khỏi nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, chiến tranh kéo dài, sự xáo trộn dân cư, sự pha trộn văn hóa các vùng miền và sự can thiệp sâu rộng của đế quốc Mỹ vào miền Nam nước ta đã khiến đời sống của các em có nhiều thay đổi lớn. Mọi người.
Hình thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, văn học đô thị Nam Bộ (văn học vùng tạm chiếm Nam Bộ) cùng tồn tại với văn học giải phóng miền Nam và văn học xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Bộ phận văn học này tiếp tục phân nhánh, phân nhánh thành nhiều dòng khác như: văn học yêu nước, tiến bộ; văn chương thoát ly, hưởng thụ; văn học đồi trụy; Trong đó, văn học yêu nước và tiến bộ ở đô thị Nam Bộ được quan tâm hơn cả, được nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá tổng hợp qua công trình tâm huyết của mình: Nhìn lại một chặng đường văn học. Nhà nghiên cứu Cao Huy Khánh đã chia các tác giả văn xuôi đô thị Nam Bộ thành các nhóm nhà văn như: Nhóm con người Việt Nam trong đó có Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ…; Nhóm Ý kiến có Vũ Khắc Khoan, Mộ Độ…; Nhóm Văn hóa ngày nay trong đó có Nhật Linh, Nguyễn Thị Vinh…; Nhóm nhân loại trong đó có Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Sơn Nam…; Nhóm Bách khoa toàn thư có Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Phan Du…; Nhóm Quốc gia, Đối diện, Bài thuyết trình trong đó có Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Nguyễn Ngọc Sơn… Dần dần, những tác phẩm văn học thuộc dòng phản cách mạng, đồi trụy, khiêu dâm đã bị đào thải khỏi đời sống văn học hoặc bị “xiềng xích” bởi những tư duy sai lầm. văn học thoát ly (không có tính chất chống phá cách mạng, xuyên tạc văn hóa tốt đẹp của dân tộc) được nhìn nhận lại.
2.
Đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21 là sự trở lại của văn học thành thị Nam Bộ. Hành trình này được đánh dấu bằng việc “tìm về” và đánh giá lại giá trị của một số tác phẩm hoặc gương mặt tác giả giai đoạn 1954-1975. Theo nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn, “Sự tái xuất hiện của một số hiện tượng văn học đô thị miền Nam 1954-1975 cũng cho chúng ta nhiều hy vọng, nhất là hy vọng về sự tồn tại trọn vẹn và đáng tin cậy của một nền văn học dân tộc đích thực.“. Có thể nói, đến nay, văn học đô thị Nam Bộ đã cho thấy những tín hiệu trở lại mạnh mẽ và đầy hứa hẹn. Các nhà nghiên cứu văn học đã “lội ngược dòng” về quá khứ để tìm kiếm, đánh giá lại những tác phẩm từng hứng chịu búa rìu dư luận. , đã bị một bộ phận độc giả hiểu lầm, thậm chí bị gán cho nó 3 từ: “rác văn chương”. sáng ngày 19/04/2021 tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra tọa đàm khoa học với chủ đề: “Sự trở lại của văn học đô thị Nam Bộ: Trường hợp Nguyễn Thị Hoàng” đã diễn ra thu hút sự quan tâm của giới chuyên môn và báo chí trong nước. Nguyễn Thị Hoàng không phải là cái tên xa lạ nổi lên trong giai đoạn 1954-1975. Sự xuất hiện của chị ở giai đoạn này như một cơn sóng lớn làm rung chuyển cả biển văn chương miền Nam, với tác phẩm đầu tay được đăng nhiều kỳ trên Tạp chí Bách khoa: vòng đeo tay học sinh (ký bút danh Hoàng Đông Phương). Năm 1966, tiểu thuyết vòng đeo tay học sinh được in thành sách và phổ biến rộng rãi khắp miền Nam Việt Nam, vừa được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ, vừa gây ra những tranh cãi không ngớt. Sau một thời gian vắng bóng nhường chỗ cho tác phẩm của các thế hệ tác giả sau này, thiết nghĩ vòng đeo tay học sinh (và 4 tiểu thuyết khác của Nguyễn Thị Hoàng sẽ mãi là dĩ vãng. Nhưng không, vào năm 2021, tác phẩm này sẽ lại xuất hiện trở lại, trong một diện mạo mới và sự đón nhận của độc giả cũng trọn vẹn. Mối tình của cô giáo Trâm và cậu học trò tên Minh , sự trỗi dậy mạnh mẽ của bản năng, khát vọng, thậm chí cả ham muốn tình dục của người phụ nữ đã trở thành chuyện bình thường trong xã hội ngày nay, không ngoa khi nói đây là “phát súng” vang dội để các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm, định vị lại giá trị của văn học đô thị Nam Bộ trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam hiện nay.
3.
Nhiều người đã đặt vấn đề: Tại sao những tác phẩm hàng trăm năm vẫn được in lại và phổ biến rộng rãi trong đời sống văn học nước nhà, trong khi những tác phẩm văn học đô thị Nam Bộ (nhất là văn học yêu nước, tiến bộ) ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ lại là vắng văn chương như vậy? Nhạy cảm, động chạm đến vấn đề chính trị, bị hiểu sai, tránh khơi dậy một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc… là những lý giải chưa thực sự thuyết phục nhưng phần nào xoa dịu dư luận. . Tìm trên tủ sách những tác giả đã góp phần định hình diện mạo văn học đô thị miền Nam 1954-1975, ngoài những cái tên như Sơn Nam (Hương rừng Cà Mau và những câu chuyện khác, Vẽ đường chân trời & đỗ quyên xuống đất, bà Hớn…), Bình Nguyên Lộc (hương vị quê hương, Mưa nhớ tằm, Làm, Những bước lang thang trên vỉa hè của người đàn ông Bình Nguyên Lộc…), Nguyễn Thị Hoàng (vòng đeo tay học sinh, Đã một ngày rồi, Tình yêu trong tù, tuần trăng mật màu xanh, Tiếng chuông gọi người yêu về…), Nguyễn Thị Thụy Vũ (Động vật hoang dã, Lao vào lửa, khung rêu, Thắp nhang đêm khuya, bắn pháo hoa, Như trời lạnh…). Trong khi đó, vẫn có nhiều tên tuổi sáng tác say sưa, say mê, góp tiếng nói phơi bày hiện thực đen tối của miền Nam trước 1975, ngợi ca hình tượng người chiến sĩ cách mạng. , lên án sự tàn ác của lính Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa, kêu gọi đấu tranh, tìm về cội nguồn dân tộc. Đó là Trần Duy Phiên, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Quang Long, Võ Quê, Ngụy Ngu, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Vũ Hạnh, Võ Trường Chinh, Lý Chánh Trung… truyện ngắn từng là linh hồn của văn học yêu nước ở đô thị Nam Bộ như Mùa xuân én bay về (NXB Cửu Long, 1986), Bài hát của những người đến (NXB Trẻ, 1990), Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (NXB Trẻ, 1997), Viết lên đường chiến đấu (NXB Thuận Hóa, 2005)… không còn tái bản. Số sách còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay và được bảo quản rất cẩn thận tại các Thư viện Quốc gia, Thư viện Tỉnh/Thành phố. Sau nhiều năm nỗ lực nghiên cứu, sưu tầm, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã tập hợp được hơn 40 tác giả trong công trình. Nhìn lại một chặng đường văn học (Nxb Tổng hợp, 2000). Đây được coi là công trình tham khảo hiếm hoi về văn học đô thị Nam Bộ (bộ phận văn học yêu nước và tiến bộ). Tuy nhiên, hiện tại cuốn sách này mới chỉ được phát hành dưới dạng sách điện tử, chưa có động thái in tái bản và phát hành lại dưới dạng sách giấy.
4.
Văn học đô thị miền Nam 1954-1975 vẫn là một bộ môn kén người đọc, thậm chí ít hoặc không dạy ở bậc phổ thông, cao đẳng, đại học. Tài liệu tham khảo về văn học đô thị cũng rất hiếm. Những năm gần đây ở nước ta không có nhiều nhà nghiên cứu, học giả nghiên cứu về văn học đô thị. Từ Bắc vào Nam, có thể kể vài cái tên đang âm thầm nghiên cứu dòng văn học này như Trần Đình Sử, Phạm Xuân Nguyên, Trần Hữu Tá, Nguyễn Thị Thu Trang, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Lam Điền, Phạm Thanh Hùng, Bùi Thanh Thảo… Sản phẩm của họ là những công trình chuyên khảo, những bài báo có giá trị, những bài báo khoa học đăng từ trong nước đến quốc tế. Không ngoa khi nói rằng những nhà nghiên cứu, học giả này đang góp phần gìn giữ những tinh hoa của một giai đoạn văn học tồn tại trong lịch sử thăng trầm của đất nước. Về tác giả của văn học đô thị Nam Bộ, cho đến thời điểm hiện tại, một số người vẫn miệt mài sáng tác và đã có những tác phẩm thuộc thể loại tản văn hoặc báo chí, ghi chép đăng trên báo, tạp chí. Chẳng hạn như Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Tần Hoài Dạ Vũ… Tuy nhiên, dù những tác phẩm sau này của họ có giá trị đến đâu, khi chúng ta nhắc đến những cái tên này, Chúng ta còn nhớ họ từng là những gương mặt nổi bật của văn học đô thị miền Nam những năm 1954-1975. Có thể nói, việc định vị lại văn học đô thị Nam Bộ trong bối cảnh hôm nay cũng chính là cách chúng ta “tìm về dân tộc” – một nội dung quan trọng của bộ phận văn học yêu nước và tiến bộ 1954-1975 – trong thời đại mới.
[/box]
#Định #vị #văn #học #đô #thị #miền #Nam #trong #bối #cảnh #hôm #nay #Tác #giả #Phạm #Khánh #Duy
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Định vị văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh hôm nay – Tác giả: Phạm Khánh Duy bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#Định #vị #văn #học #đô #thị #miền #Nam #trong #bối #cảnh #hôm #nay #Tác #giả #Phạm #Khánh #Duy
Trả lời