1. Học giả Lâm Ngữ Đường (Trung Quốc) đã từng nói: “Thơ có nhiệm vụ thay thế tôn giáo, tức là nhiệm vụ làm cho tâm hồn thanh khiết, cảm thu được cái đẹp của vũ trụ và làm cho con người cảm hoá được sinh vật”. Nói thế tức là thơ có những điểm gặp mặt, đồng điệu với tôn giáo. Điều này trình bày rất rõ trong những bài thơ Thiền. Thơ và Thiền gặp nhau trong trực quan và cảm nhận của tri thức “Thơ và Thiền từ Đông sang Tây trợ duyên nhau nhưng làm nên những bài thơ siêu việt. Phương Đông xưa nay là quê hương, xứ sở của Thiền”[1]. Trong văn học Trung Quốc từ đời Đường cho cuối đời Thanh, có một nguồn thơ Thiền rực rỡ (trình bày trí tuệ tỉnh ngộ – ý thức Bát-Nhã-Ba-La-Mật) trong đó sáng tác của thi Phật Vương Duy (701-761) là một đỉnh cao. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đậm chất Thiền của ông chính là thi phẩm Điểu minh giản (Khe chim kêu). Bài thơ đã được đưa vào chương trình Ngữ văn 10 (tập 1, NXB Giáo dục, 2006):
Phiên âm:
Nhân nhàn hoa quế lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn ko.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung.Dịch nghĩa:
Người nhàn, hoa quế rụng,
Đêm yên tĩnh, non xuân vắng ko.
Trăng lên làm chim núi giật thót,
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe núi.Dịch thơ:
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật thót,
Tiếng kêu thủng thỉnh đưa quanh khe đồi.
(Ngô Tất Tố dịch)
2. Thơ Thiền trình bày tư tưởng Phật giáo nhưng có những rực rỡ riêng. Thiền là yên ắng, trầm lắng để tâm hồn siêu thoát, vượt thế tục đi vào cõi riêng của tuệ giác; trái lại, thơ thuộc về tâm tưởng chủ quan của thi sĩ, là “lời nói trong” (chữ dùng của Chu Hy ) của chính thi sĩ. Thiền và thơ nằm trong cái toàn cầu siêu hình, giải thoát con người ra khỏi vô minh. Chính vì vậy, có người ở đời Đường lúc lý giải về thơ đã kết luận “Thi thị khả giảng bất khả giảng chi gian” có nghĩa thơ có cái giảng được và có cái ko thể giảng được. Thơ đôi lúc trở thành vô ngôn, nhưng tới một lúc nào đó lúc tâm tĩnh tại có thể nhìn thấy được, cảm thu được, hiểu thấu được thì lúc đó, Thiền và Thơ gọi là Ngộ và Nhận “Đó là tiềm thức và trí tưởng của ta đủ khả năng giúp ta thông minh những gì nhưng ta nhận thức” (G. Bachelard). Trọng tâm của thơ là xúc cảm hơn là suy tưởng, còn thiền là thức tỉnh để nhận thức “Thi ca ko có hình ảnh thì ko còn là thi ca nữa cũng như đi vào suy luận siêu hình thì thiền ko còn là thiền nữa”[2]. Nhưng nếu có ý thức tôn giáo hay tiềm thức thiền thì người nghệ sĩ nói chung, trong một phút chốc tình cờ nào đó có thể bộc lộ tiềm thức thiền hay ý thức tôn giáo của mình qua thông minh ý thức của chính họ. Vì thế đọc thơ Thiền ko dễ, cần một phương pháp tiếp cận khác với phương pháp thông thường (phương pháp truyền thống, phân tích nhân vật trữ tình, phương pháp tiểu truyện, phân tâm học, phản ánh luận, cấu trúc luận,…). Tất cả vạn vật đang hiện hữu, nó là “ko”. Ý niệm “ko” ko phải là hư vô, nhưng là trạng thái vượt qua nhị nguyên tử – sinh, vượt qua hữu – vô, vuợt qua sắc tướng. Thơ Thiền có lúc trình bày cái nhìn hành đạo của Kinh Hoa Nghiêm: tất cả đều là Phật, tất cả đều là pháp. Toàn cầu quan của Thiền tông nói như thiền sư Pháp Bảo: “Vạn là sự tản ra của một, một là xuất xứ của vạn”. Đọc thơ Thiền, người đọc sẽ nhìn thấy những tư tưởng cơ bản trên, nơi sự chứng ngộ của các Thiền sư. Vì thế thơ Thiền trước hết là thơ tư tưởng, ko phải là kiểu thơ phản ánh hiện thực hay thơ thổ lộ tâm trạng. Lúc tư tưởng Thiền được hình tượng hoá, nghệ thuật hoá thì mới gọi là thơ. Độc giả chín muồi tiềm thức Thiền nhìn thấy được cái gọi là ‘tâm hoa nở” trong thơ (Thơ yếu tự phát kỳ tâm hoa) thì mới “đồng thanh tương ứng” để tiếp thu thơ thiền.
3. Vương Duy tự Ma Cật, là thi sĩ kiêm hoạ sĩ nổi tiếng đời Đường. Ông để lại hơn bốn trăm bài thơ. Thơ ông hiện lên hình tượng con người nhàn nhã, cảnh sắc tự nhiên yên tĩnh, trong sáng. Đó chính là sự trình bày màu sắc thanh tịnh vô vi, “không có con bất tử”, nhàn tâm của đạo Phật. Tô Thức đời Tống lúc đọc thơ Vương Duy đã nhận xét: “Vi Ma Cật chi thị, thi trung hữu hoạ, quan Ma Cật chi hoạ, hoạ trung hữu thi” (Thưởng thức thơ Ma Cật, thấy trong thơ có hoạ, xem hoạ Ma Cật, thấy trong hoạ có thơ). Toàn cầu Thiền thi của Vương Duy là một nghệ thuật liên kết hài hoà, thuần thục giữa thơ và hoạ, giữa Phật giáo và Lão giáo, là sự dung hợp Thiền – Thơ. Điểu minh giản là một bài thơ xinh xẻo, bình dị nhưng hàm chứa nhiều ý vị trầm lặng của Thiền học. Bài thơ được tuân theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, chỉ vẻn vẹn hai mươi chữ nhưng ý nghĩa của bài thơ ko hạn định trong khuôn viên câu chữ của nó.
Cả bài thơ là một bức tranh phong cảnh nhuốm tình người:
Nhân nhàn hoa quế lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn ko.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung.
Tất cả cảnh vật được thu vào bên trong. Những hình ảnh xuất hiện trong bài thơ: hoa quế, ánh trăng, núi non, khe suối, chim kêu,.. là những hình ảnh thân thuộc trong thơ ca phương Đông nhưng ở đây lại có sức ám gợi lạ thường, sâu xa. Nói như Nguyễn Văn Hạnh: “Tính biểu tượng của tự nhiên trong bài thơ ko phải ở những hình ảnh đơn nhất nhưng ở sự tương tác hài hoà giữa chúng (…). Màu thiền của bài thơ nằm khuất lấp giữa các dòng thơ, ẩn mình đằng sau cảnh sắc, trong cái yên ắng của hồn người”[3]. Bởi vậy bài thơ tạo cảm giác yên ắng, thanh nhã, bình đạm. Toàn cầu nghệ thuật của nó là một phức hợp cộng hưởng, giao hoà giữa: người và cảnh, âm thanh và ánh sáng, thính giác – thị giác – khứu giác và xúc giác, ko gian và thời kì. Trong thơ Trần Nhân Tông ta cũng bắt gặp sự giao hoà này:
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư
Lộ trích thu đình dạ khí hư
Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc Tê hoa thượng nguyệt lai sơDịch thơ:
Đèn soi nửa cửa, sách đầy giường
Đêm vắng sân thu loáng thoáng sương
Thức dậy đâu đây chày đập vải
Trên bông hoa Quế, ánh trăng non.
(Nguyệt – Trần Nhân Tông)
Ở đây, thiên – nhân – địa cùng thống nhất. Mọi vật đều có vong hồn. Cảnh vật tự nhiên trong tứ thơ của Điểu minh giản tác động tư tưởng thiền “có có ko ko” hết sức sâu đậm, tạo thành một cảnh giới linh hoạt, huyền ảo, yên tịnh, vắng lặng tới nhiệm mầu. Con người, vũ trụ là một, “tất cả tức một, một tức tất cả”. Tác giả mượn cảnh sơn thuỷ hữu tình để truyền tải tới độc giả một cảnh giới “thong dong tự tại, yên ắng trong sạch” có cội xuất xứ rễ tự trong tâm. Đó là bức tranh tâm trạng. Đỗ Phủ trong bài thơ Giải muộn từng gọi Vương Duy là cao nhân Vương Hữu Thừa. Vương Xương Linh thì nói: “Thân ở thế gian nhưng tâm thì vượt thoát thế gian”. Nhận xét đó thật đúng với bài thơ này.
Hai câu đầu đã trình bày hình ảnh con người sống trong cảnh nhàn hạ “người nhàn”- đó là cuộc sống của người ẩn sĩ nơi điền viên sơn thuỷ để hoà mình, giao cảm với tự nhiên. Theo Lại Quang Nam: “Người nhàn là một danh từ “song lập”, là một bậc trong đạo ở ẩn, từ dùng để chỉ lớp người đã gác mọi ràng buộc phiền não của xã hội đương thời, đi tìm sự yên tĩnh trong tâm hồn”. Ở đây có sự giao hoà, giao cảm một cách tự nhiên giữa người và cảnh. Trong đêm yên ắng, thi nhân nghe được tiếng hoa quế rơi. Hoa quế là loài hoa màu trắng, có hương thơm và rất nhỏ, lúc rụng rơi rất khẽ. Vậy nhưng con người cũng nghe được. Cái động nhỏ nhỏ, mỏng manh đấy khiến ta liên tưởng tới “Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” trong thơ Trần Đăng Khoa. Tâm hồn thi nhân nhạy cảm vô cùng! Lắng tai được âm thanh đó ko phải chỉ vì cảnh đêm mùa xuân nơi núi non yên tĩnh nhưng còn vì tâm hồn thi sĩ cũng đang yên ắng! Tâm hồn thi sĩ chiếu ứng ra cảnh: Dạ tĩnh xuân sơn ko. Sự liên kết của ba từ: lạc (rụng), tĩnh (vắng lặng) và ko (vắng ko) vừa gợi sự tịch mịch của cảnh đêm nơi rừng núi, vừa phảng phất nỗi buồn man mác, cô tịch. Cảnh hàm chứa sự quán chiếu của Vương Duy về các vấn đề vô thường, vô ngã! Nó diễn tả cái quan niệm sắc sắc ko ko của đạo Phật. Bản dịch thơ của Tương Như trong SGK Ngữ văn 10: “Đêm xuân núi vắng teo”, đã đánh mất chữ tĩnh, là chữ quan trọng làm nổi trội cái yên ắng trong bài thơ!
Hai câu thơ cuối dường như có sự dịch chuyển từ ko gian tĩnh và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng: “nguyệt xuất” (trăng lên) và âm thanh: chim núi cất tiếng kêu. Nhưng ánh sáng và âm thanh càng tô điểm thêm cho vẻ yên ắng của cảnh vật, cho Dạ tĩnh xuân sơn ko. Trong thời kì đêm xuân, ánh trăng huyền ảo lung linh dàn trải khắp núi non làm cho ko gian thêm rộng và mê hoặc, mơ hồ, vắng lặng (sơn ko). Ánh sáng lan toả cũng làm kinh động tới chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, “giật thót” thảng thốt! Chim núi giật thót bởi ánh trăng hay “giật thót” bởi màn đêm quá yên ắng? Đó ko phải thuần tuý là sự bừng sáng của ánh trăng chiếu ứng lên cảnh vật, tác động tới trạng thái của chim núi nhưng còn là sự thảng thốt, bừng ngộ trong tâm hồn thi nhân. Ý thơ và tình thơ thật tinh tế! Thi sĩ mới Hằng Phương của văn học Việt Nam dường như cũng đã tiếp thu một cách thông minh ý thơ của các thi sĩ Đường với câu thơ: Sáng trưng mái ngói nhà người nào/ Đôi chim ngỡ buổi sớm mai giật thót. Nhưng ý tình trong thơ thi Phật súc tích, cô đọng hơn nhiều! Âm thanh: tiếng chim thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe núi điểm xuyết vào cái nền ko gian đấy càng làm cho ko gian yên ắng hơn “Có cái gì đó mơ hồ như bóng đêm, lạnh lùng như ánh trăng khuya làm độc giả rơi vào một trạng thái hư vô. Đầu óc ko còn bị vướng bận bởi những vòng tục luỵ nữa. Xúc cảm tuy vô định nhưng siêu thoát, thoải mái vô cùng”. Tĩnh từ tâm hồn thi nhân lan tới cảnh. Động xuất phát từ tĩnh, nhờ động nhưng ta càng thấy tĩnh. Tất cả vạn vật đều chạm màn hình với nhau, có mối liên hệ mật thiết với nhau một cách vô hình; đặc thù cảnh vật vào thời khắc đêm xuân càng dễ khơi gợi nhiều nỗi niềm bâng khuâng, nhiều xúc cảm vô định trong lòng người. Nổi trội trong bức tranh sơn thuỷ hữu tình, giàu sức gợi, nên thơ và yên ắng đó là hình ảnh một văn nhân mặc khách – một ẩn sĩ muốn thoát khỏi mọi hệ luỵ của chốn bụi trần để “tịnh tâm”. Vương Duy chịu tác động Thiền học rất sâu đậm, “ko tịnh” là cảnh giới ông ra sức để đạt được ở trong thơ. Đó cũng chính là sự “bừng ngộ” trong tâm hồn ông. Vì vậy, cái khoảng ko gian yên ắng ở khe núi nên thơ nên hoạ, đậm chất Thiền xuất hiện khá nhiều trong thơ ông:
Giản hộ tịch vô nhân
Phân phân khai thả lạ
(Ngõ khe vắng ko người
Mặc tình hoa nở rụng)
(Tân di ổ )
Ko sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
(Núi vắng ko bóng người,
Tiếng nói đâu vọng lại)
(Lộc trại )
Nói như Lý Anh trong Thư pháp dị giản lục: “Mô tả núi vắng ko từ khi vô thanh vô sắc, lại đi từ hữu thanh hữu sắc để cảm nhận thâm thúy hơn cái yên ắng của nó”. Thơ Vương Duy trình bày tính biện chứng, cái tiềm tàng vô cùng trong toàn cầu sắc ko.
Trong bài thơ Điểu minh giản, triết lý của Thiền học giống như cục nam châm tạo nên tâm điểm hút dính các câu thư lại thành một chỉnh thể, một cấu trúc ẩn, một hàm ý siêu thoát! Có thể thấy rằng, cái hay của bài thơ trình bày ở tính lạ mắt trong cách diễn tả sự chứng ngộ Phật – sự “Tịnh thổ” trong tâm linh của Ma Cật: an nhiên, tĩnh tại, hoà nhập với toàn cầu sắc ko (lớp nghĩa tư tưởng) và ở toàn cầu hình tượng thơ tương giao, hoà quyện, gắn kết tạo nên ý nghĩa thẩm mỹ mới lạ (lớp nghĩa nghệ thuật). Nghĩa tư tưởng và nghĩa nghệ thuật của tứ thơ có sự chuyển hoá, dung hợp, đan quyện, giao hoà đem lại cho người đọc những mỹ cảm, nhận thức khác. Đó là vẻ đẹp tâm hồn dung dị của thi sĩ hoà mình trong đời sống dân dã, thắm thiết. Có nhẽ thi sĩ đã khám phá ra chính mình trong tự nhiên và trong thái yên ắng, hư vô. Bài thơ gợi ra hình ảnh một Thiền sư ở giữa cuộc sống, giữa tự nhiên vừa ung dung giản dị vừa tinh tế nhạy cảm, vượt lên tất cả, hoà nhập tất cả, “tất cả tức một, một tức tất cả”. Bài thơ ngắn, ý tứ cô đọng rất thích hợp với tình cảnh sâu lắng mang đậm nội tâm của Thiền.
4. Thơ ca và tôn giáo nói chung đều gặp mặt nhau ở kiểu tư duy hướng nội, gắn liền với con người tư nhân, cá thể, đều dùng toàn cầu biểu tượng làm phương thức trình bày “Thơ bay vi vút trong ko gian thẩm mỹ ước lệ. Thiền bay thênh thang trong cõi tĩnh mặc, trong sáng và vô duy. Thơ là tinh hoa của tiếng nói, làm cho con chữ nhấp nhánh nhiều sắc màu, ý tượng; lung linh đa chiều tư duy và xúc cảm. Thiền là tinh hoa của minh triết đông phương, là đoá trăng soi giữa miền u tĩnh, đánh thức vô minh, vọng lầm để tao phùng với quê hương sơn thuỷ”[4]. Bài thơ Điểu minh giản của Vương Duy chính là sự kết tinh kì diệu của Thiền và Thơ. Tác phẩm toát lên vẻ đẹp bình dị, hồn nhiên, điềm đạm, ý tại ngôn ngoại với ý vị vô cùng thâm sâu, tiêu biểu cho minh triết phương Đông. Tương tự, nếu tiếp cận đúng hướng thơ Thiền, người đọc có thể thưởng thức được những trị giá mang tính chất “khải thị”, những khoái cảm thẩm mỹ đặc thù nhưng thơ Thiền đem lại. Thiền tạo nên cái đẹp mới lạ, sự bừng sáng trong tâm hồn ở những áng thơ, có lúc đọc ko hiểu, song vẫn có thể cảm thu được qua hình tượng tư tưởng – thẩm mỹ.
Bạn thấy bài viết “Điểu minh giản” – Một bài thơ thiền rực rỡ của Vương Duy
Trung Quốc / Lớp 10 » Vương Duy » Điểu minh giản
có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về “Điểu minh giản” – Một bài thơ thiền rực rỡ của Vương Duy
Trung Quốc / Lớp 10 » Vương Duy » Điểu minh giản
bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời