Truyện Kiều được Nguyễn Du viết vào đầu thế kỷ 19. ‘Truyện Kiều’ đã được viết ra, và ngay cả những người sành sỏi cũng phải xác nhận nó là một tuyệt tác của văn học cổ điển.
Đời vua Tự Đức, thấy có người chê Truyện Kiều nhiều câu văn ko được vẹn toàn, trang nhã, nhà vua liền ra lệnh triệu tập các quan lại để soạn Truyện Kiều. một quan chức. Tại triều đình tên là Hà Tôn Quyền, đổi thành sách “A Kiều lục”, nhưng sau vua tôi cùng góp ý, thấy văn học vẫn ko bằng bản dịch của Nguyễn Du, nên hủy bỏ, ko kế thừa. sau đó.
Vì vậy, từ đó mới có người chính thức thực hành vần Nôm và nghiên cứu thơ Nôm. Rồi càng thịnh hành, có thể gặp thời thế thay đổi, văn phong chữ Nôm lúc Nho suy, Tây học thay thế chữ Quốc ngữ mỗi ngày một lan rộng khắp dân gian, lâu dần mở rộng mãi mãi. và gây ra phong trào chấn hưng chữ Quốc ngữ.
Lúc bấy giờ, lối viết của tiếng ta chỉ có chút thay đổi, viết theo lối Nôm rối rắm, ko có câu dứt khoát, muốn viết thế nào thì đọc, đọc thế nào thì chuyển sang viết bằng chữ. Chữ Quốc ngữ, là một lối viết có hình thức thanh rất rõ ràng của tiếng Việt và tiếng Tây, do các thầy cổ đặt ra, và được các thầy cố người Pháp sửa đổi. Việc sửa đổi đó ko làm hại gì tới sự tiến hóa của tiếng Việt nhưng mà còn tạo điều kiện cho tiếng Việt nhanh chóng rộng rãi khắp nơi và trở thành thông dụng hơn.
Cụ Nguyễn Du kế bên công nghiệp lớn lao là văn học, còn có công tạo cho văn học nước nhà một vị trí đáng lẽ phải có: Một thứ tiếng nói có thể tách rời, có một tương lai tươi sáng đáng sống phải ko các bạn? chịu chung số phận với các phương ngữ chưa định hình khác! Vì vậy, Truyện Kiều ra đời giữa lúc tiếng Việt cần được biết tới và đã hoàn thành nhiệm vụ nặng nề là làm cho người Việt biết tiếng của mình. “Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào đầu thế kỷ 19, cách đây gần hai trăm năm, nhưng đọc trên ba nghìn câu, ta ko thấy cổ văn, ý nghĩa gì. Tới nỗi các nhà Nho ngày xưa chỉ dùng tiếng nói bình dân nhưng mà lúc đọc Truyện Kiều đã phải khen là xuất sắc.
Thưa quý vị, thảm kịch của nàng Kiều chính là lời giải cho tựa đề “Tài và Mạnh xung khắc, Mạnh luôn thắng”. Sáng kiến của giải pháp là nàng Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh lỗi lạc bị đặt giữa cảnh ngặt nghèo của hiếu và xét nhưng phải chọn cho mình một trục đường. Người con gái đấy đã chọn ngay trục đường thống khổ và nghiêm khắc cho mình, nhất là trục đường bán mình chuộc cha. Rồi từ đó sống lưu vong, hết người này tới người khác, thể xác đầy đọa đày, hai lần thanh mai trúc mã, hai lần áo cà sa.
Cụ Nguyễn Du cũng như các thi nhân xưa kia thường trằn trọc về đề tài đấy. Nay thấy một cuốn tiểu thuyết nào giải được, ông liền dịch sang tiếng ta, mượn truyện để than vãn… Nhưng ko dịch. một câu chuyện được dịch, thường sai, ít được sử dụng. Văn học của bất kỳ quốc gia nào đặc thù hữu ích cho dân tộc đó, cho dù nó hay ở một khía cạnh nào đó, nhưng ở những gì ko thể dịch từ tiếng nói này sang tiếng nói khác, chẳng hạn như nhạc điệu, âm thanh của một bài thơ. Việc dịch dùng từ lõi đối lập với từ tưởng là đúng nhưng thực tiễn nhiều lúc lại trái ngược hoàn toàn với nguyên tác. Cái khó hơn là người dịch phải hiểu được cả hai từ, tránh những sơ sót có thể xảy ra.
Thảm kịch của nàng Kiều là lịch sử của một mĩ nhân Trung Quốc thời nhà Minh, từ phong cảnh, khí chất, phong tục của con người thời bấy giờ ko có phần nào giống nàng, nhưng Nguyễn Du đã khéo cân nhắc và lựa chọn “Truyện Kiều” sao cho một số người lầm tưởng anh đấy đã sáng tác nó. Ông vừa là một dịch giả, một nhà tâm lý học tài hoa, vừa là một họa sĩ có óc quan sát. Anh thiên về tả tình, tả cảnh: tình yêu phức tạp trong lòng người, hay tình yêu thường thấy ở một người, anh có thể phân biệt rõ ràng bằng “những gì nhìn thấy…”, thêm vào những thứ anh nhìn thấy đó. , ông lại nói thêm, làm bài học cho đời sau, những kinh nghiệm nhưng mà ông đã trải qua. Anh cũng tài, trước những cảnh tượng biến hóa của công việc hóa học nhưng mà đôi lúc người viết thường băn khoăn ko tìm được từ ngữ nào tả đúng cảnh thực, anh phác họa bằng bút mực rất dễ dàng, khiến chúng tôi đọc truyện phải xuýt xoa. Thơ ông như có những bức tranh sống động hiện ngay trước mắt, và nhất là lúc đọc “Truyện Kiều” có cảm giác như đang đứng trong lớp học của danh sĩ Nguyễn Du nhưng mà trên tường lại treo cảnh “Đêm xuân” thì:
Ngoài những chú thỏ thẻ vàng,
Nách bông liễu bay về xóm.
Hiện giờ cảnh “Đêm thu” là:
Đêm tối của đồng hồ chết,
Gió cây rụng lá, trăng ngậm sương.
Hiện giờ cảnh “Đêm đông” là:
Xin gió buộc hoa kế bên,
Nửa bức màn tuyết khép lại, bốn phía trăng…
Trong cảnh nào cũng có một vầng bạc đồng hành với nàng Kiều, nhưng người bạn đấy chỉ mang tới cho nàng nỗi tủi nhục buồn tủi, chứ ko phải là người bạn xoa dịu nàng lúc cuối ngày v.v.
Thưa các bạn, nhờ dụng cụ Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều, một tuyệt tác văn học Nôm ở nước ta trong mười năm gần đây đã nổi lên phong trào chấn hưng văn học nước nhà. Trào lưu đó là do tác động của Tây học nhưng mà “Truyện Kiều” là một nguyên nhân chính tương tự. Đồng thời với phong trào chấn hưng văn hóa dân tộc còn có phong trào chống chữ Hán. Nguyên cũng ko ngạc nhiên. Nước ta gần hai nghìn năm đô hộ, thời kỳ đấy Hán học là nấc thang danh vọng. Muốn thăng tiến thì phải theo Hán nhưng mà học. Người nào cũng chỉ có một mục tiêu, đó là học làm quan. Vì thế, địa vị cao quý đó là niềm mong ước của mọi người, nên vì mải nghĩ tới lợi danh, các nhà Nho buộc lòng phải sao nhãng quốc âm để dùi mài kinh sử.
Sau này, lúc Pháp sang đô hộ nước ta, Hán học ít dần nhưng mà Tây học là kế sinh nhai và cũng là nấc thang trong trục đường thái giám. Chúng ta bỏ dần Hán học cổ nhưng mà theo Tây học.
Nhờ vào sự uyên bác sâu rộng của người phương Tây, mới có thể phục hưng được tiếng Việt một cách thực tiễn chứ ko hình thức, chỉ có những người biết trân trọng trị giá của “Truyện Kiều” và mới có một số người hiểu được tài năng đặc thù của Nguyễn Du. Xưa nay, văn chỉ cần nhiều danh từ, chỉ cần chữ bóng bẩy, chỉ cần câu tương đối, chỉ cần nhiều điển tích, đó là sức nặng của học thuật nhà văn, của Nguyễn Du lúc dịch sách. “Kiều” đã bao trùm hết phạm vi hẹp đấy… Ông dùng từ mới mạnh mẽ, nhiều câu tương tự cú pháp tiếng Pháp, chẳng hạn các câu:
Còn non, còn nước, còn dài,
Về phần trở lại nhớ người hôm nay…
Hoặc:
Đã cho từ mặt hồng,
To make: làm hại, phá hủy, tăng trọng lượng.
“Truyện Kiều” thực sự là một cuốn sách mở đường cho nền văn học nước nhà, trong lúc nền văn học Trung Quốc đã quá đè nặng lên trí tuệ người dân họ, quan liêu đã in sâu vào tâm trí người dân họ. . Tiếng Việt lúc bấy giờ, vì chữ thảo thịnh hành, lại bị cấm đoán một thời, nên gần như trở thành một phương ngữ vô vọng, vô lai, nếu ko có một vài tác giả bình dân trong dân gian. Người ta còn chú ý nghiên cứu văn Nôm, dần dần sản sinh ra nào là ca dao, nào là cách ngôn, nào là tục ngữ, nào là câu đối, nào là tục ngữ, tìm đâu ra một kho tàng văn Nôm? dồi dào?
Trong kho sách đấy, chỉ có những người bình dân, đa số là phụ nữ và trẻ em trong làng, thường đọc chúng bằng cách kể chuyện, ru con, than vãn, hoặc hát ví, giặm, lúc tát nước ngoài ruộng, nương rẫy. đêm tối lúc tuốt lúa…
Để trở thành văn học bình dân của ta, để lại từ xưa, trừ những bộ tiểu thuyết văn học dài kỳ: “Tần Cung Oán”, “Đệ nhị Đỗ Mai”, “Chinh phụ ngâm”, “Hoa tiên”, “Kim Vân Kiều”, đều là truyền mồm… Sở dĩ văn học được hồi sinh là nhờ Truyện Kiều nhưng mà Nguyễn Du, cũng như thi sĩ Pháp Mistral, xuất bản vào thế kỷ 19. Thơ Mireille đã hồi sinh thổ ngữ Nam Bộ.
“Truyện Kiều” có một đặc tài là nổi tiếng khắp dân gian, vì được viết bằng văn xuôi giản dị, trau chuốt, đọc với âm hưởng rất nhẹ nhõm, nghe ko chán. Có thể ví Truyện Kiều như một bản nhạc có khúc du dương, khúc hùng tráng, khúc da diết, khúc êm đềm, cảnh nào cũng thích hợp cho mọi người nghe. nên mở màn được rộng rãi khắp cả nước, rồi mới dần dần, những cái hay trong tình tiết, trong văn học đã vĩnh viễn xa cách, thêm vào đó, chúng tôi được gặp trực tiếp những học vấn rộng rãi của người phương Tây khát nước. Nếu muốn tìm cái mới, Truyện Kiều là một cuốn sách thời thượng.
Cụ Nguyễn Du ko đột nhiên có cái tài đấy. Ông cũng chịu tác động nặng nề của văn học chữ Nôm. Đọc “Truyện Kiều” ta thấy nhiều chỗ câu đối rất giống câu đối trong truyện “Hoa Tiên”, nhưng giọng điệu văn xuôi của Nguyễn Du có một nét riêng khiến ta ko lẫn vào đâu được. Một nhà văn Pháp từng nói: Ý kiến là của chung, chỉ có câu chữ diễn tả ý kiến đó là của riêng mỗi người. “Truyện Kiều” trở thành một tác phẩm văn học bất hủ bởi Nguyễn Du đã khôn khéo vận dụng tài diễn tả những ý nói chung bằng một nhịp độ riêng, đó là một nét rực rỡ trong nghệ thuật của ông. dụng cụ. “Truyện Kiều” về cách làm ý đã thích hợp với cảm nhận của mọi người, nhưng về văn tự thì nó có cái gì rực rỡ hơn người, nên trong kho văn học chữ Nôm, từ đời Trần tới gần, “Truyện Kiều” Kiều” Đúng là cuốn sách của hàng thế kỷ. Cuốn sách đấy được đúc kết lại bởi những tinh hoa của văn học chữ Nôm nói chung, là mẫu mực cho các văn nhân lâu đời sau này, là tiêu chuẩn của văn học chữ Nôm thời Nguyễn và là tác phẩm mở đầu thời Phục Hưng. phồn vinh của tiếng Nam Bộ…
Nhớ để nguồn bài viết này:
Địa vị ‘Truyện Kiều’ trong lịch sử quốc văn của website thpttranhungdao.edu.vn
Phân mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Địa #vị #Truyện #Kiều #trong #lịch #sử #quốc #văn
Trả lời