Tổng hợp Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến do Trường THPT Trần Hưng Đạo sưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, cụ thể, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn không giống nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”.
Thân bài
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập với tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
– Biểu thị của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Trước tiên là phải nói tới nỗi nhớ của thi sĩ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và tự nhiên của người lính Tây Tiên và tự nhiên Tây Tiến.
+ Tự nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu.
=> Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gựi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”.
* Ý thức bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việckhông tránh né hiện thực, mô tả cái bi, tức cái gian truân, đau thương của hiện nay. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng ko hề bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu thị:
+ Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko hề tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng thi sĩ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
=> Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại nhưng mà câu“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Ý thức của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Nhận định:
Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Kết bài
– Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến.
– Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông ko chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân yêu tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Triền miên trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân yêu trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đung đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào ko gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng ko lúć ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Ko chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ ko hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc ko mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ ko hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn uy phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên giới qua cách miêu tả của nhà thơ ko hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên giới xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao lúc đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca uy phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc ko tiếc thân mình.
Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với văn pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong thái hào hùng của một thi sĩ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời kì, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam người hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần tới độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu rực rỡ, những hình ảnh thơ lạ mắt. Nhưng sức quyến rũ của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và ý thức bi tráng lúc khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mệnh xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian truân nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập, tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 tới 1975 chủ yếu được trình bày trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, truyền tụng chủ nghĩa người hùng cách mệnh và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ thênh nhưng mà trĩu nặng vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ồ ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ tới hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang vu tới cảnh sông nước yên bình thơ mộng tới đêm hội hoa chúc đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” tới “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn. Những thủ pháp thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và tự nhiên.
Tự nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân tưởng tượng ra một “đêm hơi’, ko chỉ có sương rừng ướt lạnh nhưng mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bờ bến” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Thi sĩ nhớ những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu. Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gửi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát xuất hiện dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mỏi mệt của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước nhưng mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời
Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, khấp khểnh, ngòng ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngòng ngoèo, dốc vút lên nghìn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng nghìn thước. Câu thơ cũng khấp khểnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, kinh khủng. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn hẻo lánh ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao vút, hoang vu, xa lạ vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Tự nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính ko hề bị chìm đi nhưng mà vẫn nổi lên đầy thử thách. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Tự nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội nhưng mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi nhấp nhoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi ko gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, mến thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Khó khăn với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, gớm ghê của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, kín đáo của rừng đại nghìn. Vẻ hoang dại đó ko chỉ mở ra ở ko gian cụ thể nhưng mà còn được khám phá ở thời kì “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả mô tả thời kì, nhưng lại gợi được ko gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối dọa nạt sẵn sàng xơi tái con người. Đặc thù họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành thị tới rừng đại nghìn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, khốc liệt, ko kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh đó cũng càng kích thích chiến sĩ ko ngần ngại xông pha với ý thức hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của tự nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của tự nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”. Đặc thù đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “đó” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển thân thuộc nhưng lúc đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi trội trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh nhã trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đung đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đung đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đung đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với tự nhiên tổ quốc của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất kì bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian truân, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm ngừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian truân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân ko quản ngại vất vả, nguy hiểm đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ ko nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.
“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội hoa chúc” khiến quang cảnh tuy thiếu thốn nhưng mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng tới say mê, rộn rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất thần xuất hiện lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang vong linh của núi rừng càng trở thành thu hút. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên giới xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hoan hỉ, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian truân nhưng mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp tình nghĩa. Qua đó càng cho thấy đời sống ý thức vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian truân khốc liệt xưa.
Đặc thù bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác thường:
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh ko mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng ko tránh né hiện thực của cuộc kháng chiến gian truân này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thực này trong cảm hứng lãng mạn, người hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian truân thiếu thốn. Từ ngữ táo tợn mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “ko mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng người hùng của Quang Dũng thì màu xanh đó lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng tới quân thù, khát khao giết mổ giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ uy phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn tả này có vẻ cầu kì nhưng thích hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng vía những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng ko hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp sáng sủa, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Ý thức bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việc mô tả hiện thực, ko tránh né cái bi, tức cái gian truân, đau thương. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng ko bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, thi sĩ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm tự hào thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự liên kết một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở thành trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian truân, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở thành cao đẹp bi tráng. Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trẻ trai sống với bầu tính nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng đó lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu nhưng mà có? Ở đây có sự gặp mặt giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời người hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến khốc liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã tụ hội mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi ko trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tương tự, Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay viết về tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất) ” state=”close”]
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất)
Hình Ảnh về: Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất)
Video về: Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất)
Wiki về Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất)
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất) -
Tổng hợp Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến do Trường THPT Trần Hưng Đạo sưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, cụ thể, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn không giống nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”.
Thân bài
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập với tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
– Biểu thị của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Trước tiên là phải nói tới nỗi nhớ của thi sĩ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và tự nhiên của người lính Tây Tiên và tự nhiên Tây Tiến.
+ Tự nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu.
=> Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gựi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”.
* Ý thức bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việckhông tránh né hiện thực, mô tả cái bi, tức cái gian truân, đau thương của hiện nay. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng ko hề bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu thị:
+ Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko hề tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng thi sĩ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
=> Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại nhưng mà câu“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Ý thức của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Nhận định:
Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Kết bài
– Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến.
– Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông ko chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân yêu tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Triền miên trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân yêu trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đung đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào ko gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng ko lúć ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Ko chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ ko hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc ko mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ ko hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn uy phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên giới qua cách miêu tả của nhà thơ ko hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên giới xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao lúc đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca uy phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc ko tiếc thân mình.
Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với văn pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong thái hào hùng của một thi sĩ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời kì, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam người hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần tới độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu rực rỡ, những hình ảnh thơ lạ mắt. Nhưng sức quyến rũ của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và ý thức bi tráng lúc khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mệnh xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian truân nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập, tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 tới 1975 chủ yếu được trình bày trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, truyền tụng chủ nghĩa người hùng cách mệnh và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ thênh nhưng mà trĩu nặng vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ồ ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ tới hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang vu tới cảnh sông nước yên bình thơ mộng tới đêm hội hoa chúc đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” tới “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn. Những thủ pháp thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và tự nhiên.
Tự nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân tưởng tượng ra một “đêm hơi’, ko chỉ có sương rừng ướt lạnh nhưng mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bờ bến” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Thi sĩ nhớ những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu. Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gửi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát xuất hiện dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mỏi mệt của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước nhưng mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời
Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, khấp khểnh, ngòng ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngòng ngoèo, dốc vút lên nghìn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng nghìn thước. Câu thơ cũng khấp khểnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, kinh khủng. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn hẻo lánh ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao vút, hoang vu, xa lạ vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Tự nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính ko hề bị chìm đi nhưng mà vẫn nổi lên đầy thử thách. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Tự nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội nhưng mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi nhấp nhoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi ko gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, mến thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Khó khăn với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, gớm ghê của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, kín đáo của rừng đại nghìn. Vẻ hoang dại đó ko chỉ mở ra ở ko gian cụ thể nhưng mà còn được khám phá ở thời kì “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả mô tả thời kì, nhưng lại gợi được ko gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối dọa nạt sẵn sàng xơi tái con người. Đặc thù họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành thị tới rừng đại nghìn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, khốc liệt, ko kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh đó cũng càng kích thích chiến sĩ ko ngần ngại xông pha với ý thức hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của tự nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của tự nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”. Đặc thù đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “đó” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển thân thuộc nhưng lúc đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi trội trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh nhã trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đung đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đung đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đung đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với tự nhiên tổ quốc của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất kì bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian truân, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm ngừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian truân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân ko quản ngại vất vả, nguy hiểm đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ ko nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.
“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội hoa chúc” khiến quang cảnh tuy thiếu thốn nhưng mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng tới say mê, rộn rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất thần xuất hiện lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang vong linh của núi rừng càng trở thành thu hút. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên giới xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hoan hỉ, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian truân nhưng mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp tình nghĩa. Qua đó càng cho thấy đời sống ý thức vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian truân khốc liệt xưa.
Đặc thù bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác thường:
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh ko mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng ko tránh né hiện thực của cuộc kháng chiến gian truân này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thực này trong cảm hứng lãng mạn, người hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian truân thiếu thốn. Từ ngữ táo tợn mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “ko mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng người hùng của Quang Dũng thì màu xanh đó lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng tới quân thù, khát khao giết mổ giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ uy phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn tả này có vẻ cầu kì nhưng thích hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng vía những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng ko hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp sáng sủa, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Ý thức bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việc mô tả hiện thực, ko tránh né cái bi, tức cái gian truân, đau thương. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng ko bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, thi sĩ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm tự hào thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự liên kết một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở thành trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian truân, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở thành cao đẹp bi tráng. Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trẻ trai sống với bầu tính nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng đó lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu nhưng mà có? Ở đây có sự gặp mặt giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời người hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến khốc liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã tụ hội mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi ko trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tương tự, Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay viết về tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” 1″ decoding=”async” loading=”lazy” src=”https://api.toploigiai.vn/uploads/van-mau/van-mau-12/images-4/dan-y-tinh-chat-ba-trang-trong-bai-tho-tay-tien.jpg” alt=”” title=”” >
Tổng hợp Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến do Trường THPT Trần Hưng Đạo sưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, chi tiết, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn khác nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”.
Thân bài
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
– Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Đầu tiên là phải nói đến nỗi nhớ của nhà thơ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên của người lính Tây Tiên và thiên nhiên Tây Tiến.
+ Thiên nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ.
=> Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gựi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”.
* Tinh thần bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việckhông né tránh hiện thực, miêu tả cái bi, tức cái gian khổ, đau thương của hiện tại. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng không hề bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu hiện:
+ Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không hề né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng nhà thơ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
=> Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại mà câu“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Tinh thần của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Đánh giá:
Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
Kết bài
– Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến.
– Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông không chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân thương tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Miên man trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân thương trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đong đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào không gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng không khí ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Không chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ không hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc không mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ không hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn oai phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên cương qua cách miêu tả của nhà thơ không hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên cương xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao khi đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca oai phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc không tiếc thân mình.
Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần bi tráng khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và thiên nhiên.
Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gửi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh không mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Tinh thần bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự kết hợp một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian khổ, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu mà có? Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
Như vậy, Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay viết về tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[/box]
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_3_plain]
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
Tổng hợp Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến do Trường THPT Trần Hưng Đạo sưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, cụ thể, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn không giống nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!
Xem nhanh nội dung1 Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến2 Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 13 Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”.
Thân bài
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập với tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
– Biểu thị của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Trước tiên là phải nói tới nỗi nhớ của thi sĩ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và tự nhiên của người lính Tây Tiên và tự nhiên Tây Tiến.
+ Tự nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu.
=> Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gựi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”.
* Ý thức bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việckhông tránh né hiện thực, mô tả cái bi, tức cái gian truân, đau thương của hiện nay. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng ko hề bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu thị:
+ Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko hề tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng thi sĩ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
=> Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại nhưng mà câu“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Ý thức của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Nhận định:
Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Kết bài
– Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến.
– Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông ko chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân yêu tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Triền miên trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân yêu trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đung đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào ko gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng ko lúć ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Ko chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ ko hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc ko mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ ko hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn uy phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên giới qua cách miêu tả của nhà thơ ko hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên giới xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao lúc đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca uy phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc ko tiếc thân mình.
Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với văn pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong thái hào hùng của một thi sĩ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời kì, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam người hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần tới độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu rực rỡ, những hình ảnh thơ lạ mắt. Nhưng sức quyến rũ của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và ý thức bi tráng lúc khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mệnh xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian truân nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập, tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 tới 1975 chủ yếu được trình bày trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, truyền tụng chủ nghĩa người hùng cách mệnh và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ thênh nhưng mà trĩu nặng vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ồ ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ tới hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang vu tới cảnh sông nước yên bình thơ mộng tới đêm hội hoa chúc đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” tới “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn. Những thủ pháp thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và tự nhiên.
Tự nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân tưởng tượng ra một “đêm hơi’, ko chỉ có sương rừng ướt lạnh nhưng mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bờ bến” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Thi sĩ nhớ những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu. Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gửi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát xuất hiện dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mỏi mệt của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước nhưng mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời
Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, khấp khểnh, ngòng ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngòng ngoèo, dốc vút lên nghìn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng nghìn thước. Câu thơ cũng khấp khểnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, kinh khủng. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn hẻo lánh ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao vút, hoang vu, xa lạ vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Tự nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính ko hề bị chìm đi nhưng mà vẫn nổi lên đầy thử thách. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Tự nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội nhưng mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi nhấp nhoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi ko gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, mến thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Khó khăn với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, gớm ghê của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, kín đáo của rừng đại nghìn. Vẻ hoang dại đó ko chỉ mở ra ở ko gian cụ thể nhưng mà còn được khám phá ở thời kì “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả mô tả thời kì, nhưng lại gợi được ko gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối dọa nạt sẵn sàng xơi tái con người. Đặc thù họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành thị tới rừng đại nghìn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, khốc liệt, ko kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh đó cũng càng kích thích chiến sĩ ko ngần ngại xông pha với ý thức hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của tự nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của tự nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”. Đặc thù đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “đó” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển thân thuộc nhưng lúc đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi trội trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh nhã trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đung đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đung đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đung đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với tự nhiên tổ quốc của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất kì bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian truân, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm ngừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian truân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân ko quản ngại vất vả, nguy hiểm đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ ko nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.
“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội hoa chúc” khiến quang cảnh tuy thiếu thốn nhưng mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng tới say mê, rộn rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất thần xuất hiện lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang vong linh của núi rừng càng trở thành thu hút. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên giới xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hoan hỉ, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian truân nhưng mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp tình nghĩa. Qua đó càng cho thấy đời sống ý thức vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian truân khốc liệt xưa.
Đặc thù bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác thường:
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh ko mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng ko tránh né hiện thực của cuộc kháng chiến gian truân này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thực này trong cảm hứng lãng mạn, người hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian truân thiếu thốn. Từ ngữ táo tợn mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “ko mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng người hùng của Quang Dũng thì màu xanh đó lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng tới quân thù, khát khao giết mổ giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ uy phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn tả này có vẻ cầu kì nhưng thích hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng vía những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng ko hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp sáng sủa, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Ý thức bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việc mô tả hiện thực, ko tránh né cái bi, tức cái gian truân, đau thương. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng ko bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, thi sĩ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm tự hào thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự liên kết một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở thành trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian truân, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở thành cao đẹp bi tráng. Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trẻ trai sống với bầu tính nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng đó lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu nhưng mà có? Ở đây có sự gặp mặt giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời người hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến khốc liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã tụ hội mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi ko trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tương tự, Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay viết về tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_2_plain]
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_2_plain]
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_3_plain]
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
Tổng hợp Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến do Trường THPT Trần Hưng Đạo sưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, cụ thể, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn không giống nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!
Xem nhanh nội dung1 Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến2 Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 13 Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”.
Thân bài
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập với tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
– Biểu thị của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Trước tiên là phải nói tới nỗi nhớ của thi sĩ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và tự nhiên của người lính Tây Tiên và tự nhiên Tây Tiến.
+ Tự nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu.
=> Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gựi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”.
* Ý thức bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việckhông tránh né hiện thực, mô tả cái bi, tức cái gian truân, đau thương của hiện nay. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng ko hề bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu thị:
+ Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko hề tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng thi sĩ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
=> Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại nhưng mà câu“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Ý thức của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Nhận định:
Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Kết bài
– Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến.
– Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.
Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông ko chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.
Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân yêu tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Triền miên trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân yêu trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đung đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.
Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào ko gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng ko lúć ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Ko chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.
Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ ko hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc ko mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.
Nhà thơ ko hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn uy phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên giới qua cách miêu tả của nhà thơ ko hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên giới xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao lúc đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca uy phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc ko tiếc thân mình.
Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến – Bài mẫu 2
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Với văn pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong thái hào hùng của một thi sĩ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời kì, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam người hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần tới độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu rực rỡ, những hình ảnh thơ lạ mắt. Nhưng sức quyến rũ của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và ý thức bi tráng lúc khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mệnh xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian truân nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy xúc cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác thường, phi thường lạ mắt, vượt lên những cái tầm thường, thân thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm tới cách diễn tả phô trương, phóng đại, đối lập, tiếng nói giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 tới 1975 chủ yếu được trình bày trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, truyền tụng chủ nghĩa người hùng cách mệnh và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian truân để hướng tới ngày thắng lợi.
Cảm hứng lãng mạn trình bày đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ thênh nhưng mà trĩu nặng vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ồ ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ tới hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang vu tới cảnh sông nước yên bình thơ mộng tới đêm hội hoa chúc đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” tới “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn trình bày đậm nét trong văn pháp lãng mạn. Những thủ pháp thổi phồng, đối lập được sử dụng rộng rãi, thông minh đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và tự nhiên.
Tự nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp nhiều chủng loại, vừa lạ mắt, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang vu nhưng mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân tưởng tượng ra một “đêm hơi’, ko chỉ có sương rừng ướt lạnh nhưng mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bờ bến” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Thi sĩ nhớ những cuộc hành quân gian truân qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách gớm ghê với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần trước hết tới Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc tới ko chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy nhưng mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hẻo lánh, hoang vu. Nó vừa gợi ra sự gian nan, kín đáo, thử thách, vừa gửi sự tò mò, hào hứng của những chàng trai thành thị. Tất cả quang cảnh tự nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc tới mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát xuất hiện vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát xuất hiện dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mỏi mệt của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước nhưng mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Hẻo lánh cồn mây súng ngửi trời
Nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, khấp khểnh, ngòng ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngòng ngoèo, dốc vút lên nghìn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng nghìn thước. Câu thơ cũng khấp khểnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, kinh khủng. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn hẻo lánh ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao vút, hoang vu, xa lạ vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Tự nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính ko hề bị chìm đi nhưng mà vẫn nổi lên đầy thử thách. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Tự nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội nhưng mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi nhấp nhoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi ko gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, mến thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Khó khăn với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, gớm ghê của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, kín đáo của rừng đại nghìn. Vẻ hoang dại đó ko chỉ mở ra ở ko gian cụ thể nhưng mà còn được khám phá ở thời kì “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả mô tả thời kì, nhưng lại gợi được ko gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối dọa nạt sẵn sàng xơi tái con người. Đặc thù họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành thị tới rừng đại nghìn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, khốc liệt, ko kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh đó cũng càng kích thích chiến sĩ ko ngần ngại xông pha với ý thức hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của tự nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của tự nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”. Đặc thù đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “đó” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển thân thuộc nhưng lúc đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi trội trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh nhã trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đung đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đung đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đung đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với tự nhiên tổ quốc của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất kì bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian truân, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm ngừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian truân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân ko quản ngại vất vả, nguy hiểm đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ ko nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.
“Doanh trại bừng lên hội hoa chúc
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội hoa chúc” khiến quang cảnh tuy thiếu thốn nhưng mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng tới say mê, rộn rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất thần xuất hiện lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang vong linh của núi rừng càng trở thành thu hút. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên giới xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hoan hỉ, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian truân nhưng mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp tình nghĩa. Qua đó càng cho thấy đời sống ý thức vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian truân khốc liệt xưa.
Đặc thù bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác thường:
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh ko mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng ko tránh né hiện thực của cuộc kháng chiến gian truân này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thực này trong cảm hứng lãng mạn, người hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian truân thiếu thốn. Từ ngữ táo tợn mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “ko mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng người hùng của Quang Dũng thì màu xanh đó lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng tới quân thù, khát khao giết mổ giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ uy phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn tả này có vẻ cầu kì nhưng thích hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng vía những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng ko hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp sáng sủa, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Ý thức bi tráng trong tác phẩm văn học được trình bày ở việc mô tả hiện thực, ko tránh né cái bi, tức cái gian truân, đau thương. Cái bi nhưng ko phải là bi quan nhưng mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng ko bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được bộc lộ ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Ý thức bi tráng trong bài thơ Tây Tiến trình bày ở chỗ lời thơ ko tránh né cái bi, thường nói đến tới cái chết, nhưng đó ko phải là cái chết bi quan nhưng mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền tự nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, thi sĩ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng văn pháp lãng mạn, nhưng ko thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng ko hề nói tới trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn tưởng tượng được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi xúc cảm đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “tản mạn biên giới mồ viễn xứ” càng nhân lên xúc cảm bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi xanh một thời ko chỉ tự nguyện chấp nhận nhưng mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, cả tuổi xanh cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, hiến dâng cả đời xanh, đời trẻ trai đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây ko phải chỉ là cách nói của thơ ca nhưng mà thực sự đây là dũng khí ý thức và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản tới lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm tự hào thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự liên kết một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở thành trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Phút giây vĩnh biệt đồng chí vang lên ko phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, nhưng mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có vong linh, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, tiếc thương, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm ý thức bi tráng và đặm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, núi sông, trở thành hồn thiêng của tổ quốc. Bài thơ 3 lần nói tới cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được tự nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và thổi phồng đã đẩy chất bi tráng lên tới đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng mô tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian truân, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở thành cao đẹp bi tráng. Chiến trường Tây Tiến khốc liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên trục đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã ko tránh né cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trẻ trai sống với bầu tính nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng đó lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại người hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu nhưng mà có? Ở đây có sự gặp mặt giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời người hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến khốc liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã tụ hội mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Tương tự, cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên vong linh bất tử của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp lạ mắt của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp rực rỡ của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định trị giá thực thụ của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng của một thời đại người hùng rực lửa, ko thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và ý thức bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và trị giá vững bền của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi ko trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một quang cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc nhưng mà người đọc muôn thuở yêu quý, tự hào.
Tương tự, Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay viết về tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Dàn ý tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
(hay nhất) bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Giáo dục
#Dàn #tính #chất #tráng #trong #bài #thơ #Tây #Tiến #hay #nhất
Trả lời