Sau những biến cố lịch sử, đây là ô cửa duy nhất còn tồn tại ở Hà Nội.
Theo ghi chép lịch sử, dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786), thời Cảnh Hưng, kinh thành Thăng Long có 16 cửa thành. Đến thế kỷ 20, sách báo chỉ nhắc tên 5 cửa ô: Ô Cầu Giấy, Ô Cầu Đen, Ô Chợ Dừa, Ô Đông Mạc và Ô Quan Chưởng.
Ngày nay, Ô Quan Chưởng thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là cổng thành duy nhất còn sót lại của kinh thành Thăng Long xưa.
Cửa Quan Chưởng là cổng duy nhất còn sót lại của kinh thành Thăng Long cổ
Cửa Quan Chưởng được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), có tên đen là Đông Hà Môn (cổng Đông Hà – cổng thuộc phường Đông Hà trước đây). Đây là cửa thông mở xuyên qua bức tường phía đông của thành đất bao quanh thành Thăng Long cổ.
Công trình này đã được trùng tu, sửa chữa hai lần, vào năm Gia Long thứ 3 (1804) và năm Gia Long thứ 16 (1817), tuy nhiên, kiến trúc hiện nay là kết quả của lần trùng tu năm 1804.
Cổng Quan Chưởng cũ
Ban đầu, ô cửa này được đặt tên là ô Quan Chưởng nhằm tưởng nhớ công lao và sự hy sinh của vị Thừa tướng – chỉ huy đội cận vệ đã cùng khoảng 100 chiến sĩ nhà Nguyễn đã anh dũng chiến đấu chống lại quân Pháp khi tấn công thành Hà Nội lần đầu tiên (1873) qua cửa Đông Hà.
Trong cuốn “Người và Cảnh Hà Nội” của Hoàng Đạo Thúy, ông đã nói về lịch sử cửa Quan Chưởng rất rõ nét như sau: “Song song với Hàng Đậu là Hàng Khoai. Phía dưới chợ là phố Mới; Phố, gần bờ sông có cổng Quán Chưởng (cổng Đông Hà), cổng cũ vẫn còn, đoạn này gọi là phố Hàng Chiếu.
Trước khi đến miền Tây, tên Jean Dupuis (Đỗ Phổ Nghĩa) đã xây dựng căn cứ tại đây cùng một nhóm khách. Khi Francisco Garnier tấn công tòa thành, một Grand Master và một trăm binh sĩ đã canh giữ cánh cổng này cho đến người cuối cùng. .
Cửa sổ này gọi là ô Quan Chưởng để tưởng nhớ công ơn hy sinh của Chưởng lý.
Phố Ô Quan Chưởng thời Pháp thuộc có tên là Rue des Nattes en Joncs – Siêu Cối, là nơi tập trung buôn bán chiếu cói, sản phẩm của vùng ven biển Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định, vận chuyển bằng thuyền. . .
Khi chiếm đóng Hà Nội, người Pháp phải phá bỏ các công trình cũ để mở rộng khu phố mới. Về phần Quan Chưởng, nhờ sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân và tướng Đông Xuân – Đào Đăng Chiểu (1845-1916), ông nhất quyết không chịu ký biên bản xin phép phá cổng, cuối cùng chủ trương không thể thực hiện được. .
Cổng Quan Chưởng gồm 2 tầng được xây dựng theo kiểu vọng lâu
Cổng Quan Chưởng gồm 2 tầng, được xây dựng theo kiểu vọng lâu – một phong cách kiến trúc đặc trưng của thời Nguyễn. Tầng dưới có 3 cửa, một cửa ở giữa, cao và rộng khoảng 3m, hai cửa phụ ở hai bên, rộng khoảng 1,65m, cao 2,5m. Cả 3 cửa đều được thiết kế theo kiểu vòm cuốn.
Vật liệu dùng để xây cổng Quan Chưởng là gạch và đá, có kích thước khá lớn, tương tự như gạch dùng để xây tường ở Văn Miếu. Cửa Quan Chưởng vừa là di tích, vừa là minh chứng cho tinh thần chiến đấu bất khuất của nhân dân ta trong việc chống giặc ngoại xâm và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Cổng Quan Chưởng được công nhận là di tích lịch sử năm 1995
Ô Quan Chưởng được công nhận là di tích lịch sử vào năm 1995. Đến năm 2009, dự án bảo tồn Ô Quan Chưởng được triển khai với kinh phí hơn 74.500 USD, góp phần bảo tồn các giá trị kiến trúc, lịch sử, lịch sử. Nét văn hóa cổng thành duy nhất còn sót lại ở cố đô Thăng Long.
>> Khám phá thương cảng sầm uất nhất Việt Nam: Xưa còn được coi là “Tiểu Tràng An” với 20 phường kinh doanh, buôn bán
Nhớ để nguồn bài viết này: https://nguoiquansat.vn/cua-o-duy-nhat-con-ton-tai-o-ha-noi-den-nay-da-hon-200-tuoi-xay-dung-theo-kieu-vong-lau-duoc-my-tai-tro-74-500-usd-bao-ton-di-tich-114080.html
Chuyên mục: Kiến thức chung
Trả lời