Theo chia sẻ của các chủ rừng, ngoài những khó khăn, vất vả trong công tác bảo vệ rừng, còn nhiều bất cập về cơ chế, chính sách.
Từ câu chuyện “thiệt đơn thiệt kép”
Ông Bùi Duy Giáp, Phó Giám đốc Khu BTTN Nam Nung cho biết: Khu BTTN Nam Nung hiện có diện tích hơn 23.300 ha, trong đó 23.000 ha có rừng, đây là diện tích đủ điều kiện tham gia cung cấp dịch vụ. dịch vụ môi trường rừng. Tùy theo kết quả hoạt động của bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng mà số tiền đơn vị nhận được hàng năm cũng khác nhau. Số tiền này được dùng để duy trì mọi hoạt động của KBT từ tiền lương, cơ sở vật chất, nghiên cứu, khoán bảo vệ rừng…
“Giai đoạn 2021-2025, Khu BTTN Nam Nung đã ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng với tổng diện tích gần 3.000 ha cho 284 hộ dân. Từ khi thực hiện chủ trương khoán bảo vệ rừng, đời sống người dân được cải thiện.
Ý thức, trách nhiệm của người dân trong công tác quản lý, bảo vệ rừng được nâng cao, qua đó góp phần bảo vệ tài nguyên, hạn chế tình trạng xâm hại tài nguyên rừng.
Tuy nhiên, mức khoán hiện nay là rất thấp so với mặt bằng chung thu nhập của người dân khi ngày công lao động phổ thông của người dân từ 250-300 nghìn đồng/ngày công, dẫn đến người dân phải giao khoán bảo vệ rừng. Người dân và cộng đồng gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác, hiện nay mức đầu tư cho diện tích rừng tại đơn vị thấp hơn so với các công ty lâm nghiệp khác. Ngoài việc nhận tiền dịch vụ môi trường rừng, đơn vị chỉ được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100.000 đồng/ha/năm đối với diện tích quy hoạch là rừng đặc dụng, còn đối với diện tích quy hoạch là rừng phòng hộ thì không được nhà nước hỗ trợ. sự giúp đỡ.
Trong khi đó, ngoài các công ty lâm nghiệp được hưởng tiền dịch vụ môi trường rừng, ngân sách nhà nước vẫn hỗ trợ 300.000 đồng/ha/năm theo Quyết định 38/2016/QĐ-TTg ngày 14/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng”, ông Giáp nói.
Nói về sự bất cập trong việc giao rừng cho dân, một chủ rừng khác ở Tây Nguyên bộc bạch: Với diện tích rừng giao cho dân, người dân khi nhận khoán sẽ được hưởng chính sách nhà nước, nhưng chủ rừng vẫn phải kê khai số lượng nhân sự phù hợp để trực tiếp. quản lý, bảo vệ diện tích nhận khoán như đối với diện tích không nhận khoán và chịu mọi trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm lâm luật, chặt phá rừng trên diện tích nhận khoán, bên nhận khoán chỉ không được nhận chi phí đối với diện tích phá bỏ .
Ngoài ra, theo chính sách khoán và chi trả dịch vụ môi trường rừng, chủ rừng chỉ được giữ 10% số tiền chi trả cho diện tích nhận khoán, 90% còn lại người nhận khoán sẽ chi trả. Người lao động của đơn vị trực tiếp tham gia quản lý, bảo vệ diện tích rừng nhận khoán như người nhận khoán, nhưng không được hưởng khoản tiền này.
“Không biết so sánh này có đúng không, có “thiếu” không nhưng tôi thấy thiệt thòi cho chủ rừng, đó là khi để xảy ra việc lấn chiếm, phá rừng thì mình phối hợp các đơn vị. Các cơ quan hữu quan đã bắt và xử lý những người vi phạm, nhưng họ vẫn bị coi là phải chịu trách nhiệm. Nếu nhẹ thì bị phê bình hoặc cảnh cáo, họ có thể ra tòa về tội “buông lỏng quản lý” làm mất rừng.
Còn những ngành nghề khác, ví dụ an ninh trật tự, nếu ở địa bàn dân cư, tệ nạn xã hội, buôn bán ma túy,… làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương thì đơn vị có trách nhiệm liên quan trên địa bàn cũng không sao, kể cả khi những ngành nghề này các vấn đề được giải quyết, hoặc một vụ án được giải quyết thành công, họ sẽ được khen thưởng”, ông nói.
Đối với những rào cản tồn tại
Trong số những chủ rừng ở Đắk Nông mà tôi gặp, ông Nguyễn Ngọc Bình, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Tây Nguyên, huyện Tuy Đức, Đắk Nông, chia sẻ khá sâu sắc về những khó khăn, bất cập về rừng. hiện tại và cả trong tương lai gần đối với các đơn vị lâm nghiệp nói chung.
“Khó khăn, Nam Tây Nguyên cũng như các đơn vị khác, nhưng ở đây “nóng” hơn vì là nơi từng xảy ra tranh chấp căng thẳng với người dân. Ở đơn vị, vài năm trở lại đây, năm nào cũng có hơn chục người xin nghỉ việc, không ít người vướng bận gia đình vì vướng bận công việc. Từ khoảng 4-5 năm trở lại đây, tình hình của công ty đã ổn định về mọi mặt nhờ có những biện pháp đối phó phù hợp.
Như vấn đề “nóng” liên quan đến xâm canh, lấn chiếm, chúng ta sử dụng “bàn tay sắt” song song với “bàn tay nhung”, vừa kiên quyết vừa mềm mỏng để xử lý cộng đồng dân cư chuyên xâm canh, lấn chiếm rừng”, ông Dũng nói. Bình nói.
Nhưng theo ông Bình, đó là vấn đề chủ rừng giải quyết được, chỉ cần có đối sách phù hợp. Còn những vấn đề “vĩ mô”, liên quan đến cơ chế, chính sách thì chỉ có thể “khuyến nghị” lên các cấp.
“Sắp tới, Nhà nước cho các tổ chức, doanh nghiệp lâm nghiệp thuê rừng sản xuất, đất rừng sản xuất theo quy định của Luật Lâm nghiệp và Luật Đất đai. Điều đó đồng nghĩa với việc những chủ rừng như chúng tôi sẽ phải bỏ tiền thuê đất rừng để kinh doanh. Đối với kinh doanh rừng, đầu tiên là gỗ, sau đó là các dịch vụ như môi trường rừng, carbon, du lịch, phụ phẩm từ rừng…
Nhưng nhà nước đóng cửa rừng, chỉ hỗ trợ chủ rừng tiền dịch vụ. Số tiền này rất may chỉ đủ cho các chi phí cơ bản như tiền lương. Nhưng trả tiền thuê hàng nghìn ha đất rừng như thế nào?
Theo tôi, nếu là đơn vị kinh doanh thì phải sòng phẳng, tôi sẵn sàng không nhận hỗ trợ tài chính của nhà nước mà phải thu phí. Ví dụ như mỗi năm có cơ quan liên ngành vào đánh giá diễn biến rừng của tôi chẳng hạn, mỗi năm tăng trưởng 2m3 gỗ/ha tức là mỗi năm trữ lượng gỗ tại Công ty Nam Tây Nguyên tăng hơn 40 nghìn m3. . Điều đó có nghĩa là chúng tôi kinh doanh hiệu quả. Mỗi m3 được bao nhiêu tiền, doanh nghiệp hưởng bao nhiêu, phần còn lại thuộc về nhà nước. Chúng tôi sẽ dùng số tiền này để trả lương, đóng thuế đất rừng và vận hành bộ máy”, ông Bình nói.
Về quản lý theo ngành dọc, ông Bình cho biết, cũng có những bất cập đáng kể. “Công ty Lâm nghiệp Nam Tây Nguyên tuy là đơn vị lâm nghiệp nhưng là công ty kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và Quản lý vốn Nhà nước. UBND tỉnh là chủ sở hữu, quyết định thành lập và trực tiếp quản lý doanh nghiệp.
Còn đối với lĩnh vực chuyên môn thì các Sở, ngành được phân cấp, ủy quyền. Ví dụ, liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp, kiểm lâm có Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Kiểm lâm. Về nhân sự thì Sở Nội vụ quản lý, về phương án kinh doanh thì Sở Kế hoạch và Đầu tư, liên quan đến kinh phí hoạt động của công ty thì liên quan đến Sở Tài chính… ngoài ra huyện cũng quản lý chúng tôi về mặt kinh tế. Tiệc tùng ở đây,” anh Bình nói.
“Có khi nào việc điều hành, quản lý công ty giữa các bộ phận “đá đểu” nhau không?”, tôi hỏi. Anh Bình đáp: “Dạ. Chẳng hạn, Sở NN-PTNT tham mưu quy hoạch phát triển rừng bền vững được UBND tỉnh phê duyệt trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, hàng năm Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng có kế hoạch sản xuất kinh doanh, điều chỉnh các chỉ tiêu theo tình hình thực tế. Căn cứ vào đó Công ty lập kế hoạch điều chỉnh này. Nhưng khi đi kiểm tra, họ không chấp nhận phương án của Sở Kế hoạch và Đầu tư mà lại “quở trách” là không thực hiện theo quy hoạch đã được tỉnh phê duyệt”, ông Bình đáp.
Nhớ để nguồn bài viết này:
Còn đó những bất cập của website thpttranhungdao.edu.vn
Chuyên mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Còn #đó #những #bất #cập
Trả lời