Chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức (trên thực tế) hiện nay của tiếng Việt; là một tập hợp các ký tự sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên bảng chữ cái của các ngôn ngữ Romance…
Vì thế Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Quý khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết để biết thêm nhiều thông tin hữu ích.
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Trong khoảng từ thế kỷ XV đến XVII, các thương nhân Bồ Đào Nha đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Theo bước chân của họ là các nhà truyền giáo, chủ yếu là người Bồ Đào Nha và Ý, đồng hành với các nhà truyền giáo ở những nơi mới trên thế giới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính, trong số 145 giáo sĩ đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615 đến năm 1788, có 74 người quốc tịch Bồ Đào Nha và 30 người quốc tịch Ý.
Các tu sĩ dòng Tên của Cơ đốc giáo là những người truyền giáo trong thời kỳ đó. Theo luật của dòng này, mỗi khi đến vùng đất mới, các sư thầy phải học tiếng địa phương. Với tài năng của mình, họ đã La tinh hóa các ngôn ngữ và chữ viết địa phương của vùng đất mới để những người theo đạo có thể đọc và hiểu kinh sách của các tôn giáo.
Chữ viết Latinh này sẽ được chuyển cho các nhà truyền giáo sau này. Đây là phương pháp mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Brazil, …. Vào thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng vùng Viễn Đông, lệnh đã thành lập một đại bản doanh tại Ma Cao để làm nơi đi và đến của các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ XVII, năm 1615, các tu sĩ Dòng Tên đến Nam Kỳ và lần đầu tiên họ học tiếng Việt. Sau đó, các nhà truyền giáo này bắt tay vào việc Latinh hóa chữ Việt.
Văn bản chép tay của linh mục João Roiz (người Bồ Đào Nha) viết năm 1621, có các chữ quốc ngữ nguyên thủy như Annam (Đàng Trong, lúc này nước ta chưa có đất phương Nam), Cacham (Kẻ Chàm, sau là Thanh Chiêm) , Sinoa (từ Hoa, tức Thuận Hóa), unsai (anh sai), ungue (anh Nghệ), …
Chữ Việt trong bản báo cáo của Gapar Louis (quốc tịch Bồ Đào Nha) viết năm 1621 còn có các chữ ungué (ông Nghè) và banco (bảng cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Đất đai Nam Kỳ, đã cùng Francesco de Pina đến Nam Kỳ lập đại bản doanh Nước Mặn (Bình Định) vào năm 1618. Trong tác phẩm viết năm 1621 có kiểu chữ: Tunchim (Đông Kinh tức Hà Nội), Ainam (Hải Nam), Lai (Lào), Quanguya (Quảng Nghĩa), kemoi (rợ, đất của mọi, Tây Nguyên), Quiignin (Quy Nhơn), dàdèn lạt (thời), chià (chè ), nayre (cầu nguyện), doij (đói), sayc kim (kinh), cò (vâng). Cũng trong năm 1621, nhà truyền giáo Bozumi đã viết các loại chữ: onsaij (ông nội), Nuoecman (Nước Mặn), Quanghia (Quảng Nghĩa), da an nua (có ăn lại), …
Như vậy, cho đến năm 1621, việc Latinh hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu trọng âm. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, được viết vào năm 1626 cho thấy sự xuất hiện của dấu trọng âm. Digcham (Cung điện Chăm), Sinua (tỉnh Hoa), Nuocman (Nước Mán), Ondedoc (đô đốc); hài hước giễu cợt, sh * t sh * t (đặc biệt không, không phải hay nhất).
Dựa trên bản tái bút của Pina, được tìm thấy trong Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha vào giữa năm 2018, chữ quốc ngữ có giọng giống như ngày nay. Tài liệu này được trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7/2018.
Chữ Quốc Ngữ là gì?
Chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức (trên thực tế) hiện nay của tiếng Việt; là một hệ thống chữ viết sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên bảng chữ cái La Mã, đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, Chương I, Điều 5, Mục 3 đã ghi rõ: “Chữ quốc ngữ là tiếng Việt”, khẳng định tiếng Việt là quốc ngữ của nước ta. Tuy nhiên, hiến pháp không đề cập đến “chữ quốc ngữ”, bởi vì những cải cách trong quá trình giáo dục đã để lại những khác biệt về chính tả và phiên âm trong chữ viết. Kết quả là không thể xây dựng các quy tắc thống nhất nhất quán về chữ quốc ngữ trong cộng đồng nói tiếng Việt.
Tên “quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ quốc ngữ trong tiếng Latinh lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1867 trên tờ Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ viết của phương Tây. Về sau, chữ Tây bị lược bỏ, chỉ còn lại chữ quốc ngữ; và cái tên Western lúc bấy giờ đã được đổi để dùng cho tiếng Pháp. Quốc ngữ là quốc ngữ của Việt Nam. Nếu không có bổ ngữ đi kèm cho từ quốc ngữ dùng để chỉ ngôn ngữ khác thì quốc ngữ được mặc định là chỉ tiếng Việt.
Lịch sử chữ quốc ngữ
Cho đến thế kỷ 17, tiếng Việt đã phong phú và rõ ràng. Một số nhà truyền giáo phương Tây đã học tiếng Việt để truyền bá đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Họ dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt.
Người Bồ Đào Nha đến Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII. Họ thường đi lại, buôn bán bằng đường biển và sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Hội An, một thương cảng phồn hoa thời bấy giờ.
Theo chân các thương nhân, Hội An đã tiếp nhận nhiều nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đến truyền bá đạo Thiên chúa. Họ học tiếng Á rất nhanh.
Người khá rành tiếng Việt là Francesco de Pina. Ông cũng biết nhiều ngôn ngữ châu Á khác và trở thành thầy dạy của các nhà sư đến sau.
Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, người Bồ Đào Nha, là hai nhà truyền giáo đã phát minh ra cách dùng ký tự Latinh để ghi âm tiếng Việt, mà sau này được gọi là quốc ngữ, từ năm 1638.
Ban đầu, họ tạo ra các ký tự tiếng Việt để sử dụng trong các hội. Nhưng khi người Việt Nam nắm bắt được lối viết này, họ hiểu ngay rằng đó là một phương tiện thông tin, giáo dục tuyệt vời và ngay lập tức được sử dụng làm chữ quốc ngữ.
Lịch sử phát triển của chữ quốc ngữ từ thế kỷ 20 đến nay
Vào thế kỷ 20, chính phủ Đông Pháp giao cho Nha Học dạy chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Cả nước bắt đầu cùng nhau học chữ Quốc ngữ. Ngày 28 tháng 12 năm 1918, kỳ thi chính thức bị bãi bỏ và chữ Quốc ngữ từ đó trở thành một hình thức phổ biến ở Việt Nam. Học chữ Quốc ngữ lúc bấy giờ không chỉ là phương tiện để đọc, viết mà còn để vận động chính trị và vận mệnh quốc gia.
Vào nửa sau thế kỷ XX, việc sửa chữa chữ Quốc ngữ bắt đầu diễn ra. Trong đó có việc sửa lại chữ viết liên quan đến công cuộc đổi mới giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi hiện nay có hơn 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, cùng với những cái hay và dở của công cuộc đổi mới giáo dục trong nước, dẫn đến những quan niệm và cách sử dụng chữ Quốc ngữ khác nhau.
Từ những năm 1950 ở miền Bắc, chữ Quốc ngữ được giảm bớt bằng cách bỏ dấu gạch ngang giữa từ ghép và tên riêng, ví dụ: tự do tự tại. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là vào năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, người ta đã đặt ra yêu cầu sử dụng gạch nối ở dòng tên ở mặt chính là Hồ Chí Minh.
Dưới đây là một số chia sẻ của chúng tôi về Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Quý khách hàng theo dõi bài viết, có vấn đề gì khác vui lòng báo trực tiếp để chúng tôi hỗ trợ nhanh chóng và tận tình nhất.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
” state=”close”]
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Hình Ảnh về:
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Video về:
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Wiki về
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
-
Chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức (trên thực tế) hiện nay của tiếng Việt; là một tập hợp các ký tự sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên bảng chữ cái của các ngôn ngữ Romance…
Vì thế Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Quý khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết để biết thêm nhiều thông tin hữu ích.
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Trong khoảng từ thế kỷ XV đến XVII, các thương nhân Bồ Đào Nha đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Theo bước chân của họ là các nhà truyền giáo, chủ yếu là người Bồ Đào Nha và Ý, đồng hành với các nhà truyền giáo ở những nơi mới trên thế giới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính, trong số 145 giáo sĩ đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615 đến năm 1788, có 74 người quốc tịch Bồ Đào Nha và 30 người quốc tịch Ý.
Các tu sĩ dòng Tên của Cơ đốc giáo là những người truyền giáo trong thời kỳ đó. Theo luật của dòng này, mỗi khi đến vùng đất mới, các sư thầy phải học tiếng địa phương. Với tài năng của mình, họ đã La tinh hóa các ngôn ngữ và chữ viết địa phương của vùng đất mới để những người theo đạo có thể đọc và hiểu kinh sách của các tôn giáo.
Chữ viết Latinh này sẽ được chuyển cho các nhà truyền giáo sau này. Đây là phương pháp mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Brazil, .... Vào thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng vùng Viễn Đông, lệnh đã thành lập một đại bản doanh tại Ma Cao để làm nơi đi và đến của các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ XVII, năm 1615, các tu sĩ Dòng Tên đến Nam Kỳ và lần đầu tiên họ học tiếng Việt. Sau đó, các nhà truyền giáo này bắt tay vào việc Latinh hóa chữ Việt.
Văn bản chép tay của linh mục João Roiz (người Bồ Đào Nha) viết năm 1621, có các chữ quốc ngữ nguyên thủy như Annam (Đàng Trong, lúc này nước ta chưa có đất phương Nam), Cacham (Kẻ Chàm, sau là Thanh Chiêm) , Sinoa (từ Hoa, tức Thuận Hóa), unsai (anh sai), ungue (anh Nghệ), ...
Chữ Việt trong bản báo cáo của Gapar Louis (quốc tịch Bồ Đào Nha) viết năm 1621 còn có các chữ ungué (ông Nghè) và banco (bảng cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Đất đai Nam Kỳ, đã cùng Francesco de Pina đến Nam Kỳ lập đại bản doanh Nước Mặn (Bình Định) vào năm 1618. Trong tác phẩm viết năm 1621 có kiểu chữ: Tunchim (Đông Kinh tức Hà Nội), Ainam (Hải Nam), Lai (Lào), Quanguya (Quảng Nghĩa), kemoi (rợ, đất của mọi, Tây Nguyên), Quiignin (Quy Nhơn), dàdèn lạt (thời), chià (chè ), nayre (cầu nguyện), doij (đói), sayc kim (kinh), cò (vâng). Cũng trong năm 1621, nhà truyền giáo Bozumi đã viết các loại chữ: onsaij (ông nội), Nuoecman (Nước Mặn), Quanghia (Quảng Nghĩa), da an nua (có ăn lại), ...
Như vậy, cho đến năm 1621, việc Latinh hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu trọng âm. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, được viết vào năm 1626 cho thấy sự xuất hiện của dấu trọng âm. Digcham (Cung điện Chăm), Sinua (tỉnh Hoa), Nuocman (Nước Mán), Ondedoc (đô đốc); hài hước giễu cợt, sh * t sh * t (đặc biệt không, không phải hay nhất).
Dựa trên bản tái bút của Pina, được tìm thấy trong Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha vào giữa năm 2018, chữ quốc ngữ có giọng giống như ngày nay. Tài liệu này được trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7/2018.
Chữ Quốc Ngữ là gì?
Chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức (trên thực tế) hiện nay của tiếng Việt; là một hệ thống chữ viết sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên bảng chữ cái La Mã, đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, Chương I, Điều 5, Mục 3 đã ghi rõ: “Chữ quốc ngữ là tiếng Việt”, khẳng định tiếng Việt là quốc ngữ của nước ta. Tuy nhiên, hiến pháp không đề cập đến "chữ quốc ngữ", bởi vì những cải cách trong quá trình giáo dục đã để lại những khác biệt về chính tả và phiên âm trong chữ viết. Kết quả là không thể xây dựng các quy tắc thống nhất nhất quán về chữ quốc ngữ trong cộng đồng nói tiếng Việt.
Tên “quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ quốc ngữ trong tiếng Latinh lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1867 trên tờ Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ viết của phương Tây. Về sau, chữ Tây bị lược bỏ, chỉ còn lại chữ quốc ngữ; và cái tên Western lúc bấy giờ đã được đổi để dùng cho tiếng Pháp. Quốc ngữ là quốc ngữ của Việt Nam. Nếu không có bổ ngữ đi kèm cho từ quốc ngữ dùng để chỉ ngôn ngữ khác thì quốc ngữ được mặc định là chỉ tiếng Việt.
Lịch sử chữ quốc ngữ
Cho đến thế kỷ 17, tiếng Việt đã phong phú và rõ ràng. Một số nhà truyền giáo phương Tây đã học tiếng Việt để truyền bá đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Họ dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt.
Người Bồ Đào Nha đến Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII. Họ thường đi lại, buôn bán bằng đường biển và sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Hội An, một thương cảng phồn hoa thời bấy giờ.
Theo chân các thương nhân, Hội An đã tiếp nhận nhiều nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đến truyền bá đạo Thiên chúa. Họ học tiếng Á rất nhanh.
Người khá rành tiếng Việt là Francesco de Pina. Ông cũng biết nhiều ngôn ngữ châu Á khác và trở thành thầy dạy của các nhà sư đến sau.
Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, người Bồ Đào Nha, là hai nhà truyền giáo đã phát minh ra cách dùng ký tự Latinh để ghi âm tiếng Việt, mà sau này được gọi là quốc ngữ, từ năm 1638.
Ban đầu, họ tạo ra các ký tự tiếng Việt để sử dụng trong các hội. Nhưng khi người Việt Nam nắm bắt được lối viết này, họ hiểu ngay rằng đó là một phương tiện thông tin, giáo dục tuyệt vời và ngay lập tức được sử dụng làm chữ quốc ngữ.
Lịch sử phát triển của chữ quốc ngữ từ thế kỷ 20 đến nay
Vào thế kỷ 20, chính phủ Đông Pháp giao cho Nha Học dạy chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Cả nước bắt đầu cùng nhau học chữ Quốc ngữ. Ngày 28 tháng 12 năm 1918, kỳ thi chính thức bị bãi bỏ và chữ Quốc ngữ từ đó trở thành một hình thức phổ biến ở Việt Nam. Học chữ Quốc ngữ lúc bấy giờ không chỉ là phương tiện để đọc, viết mà còn để vận động chính trị và vận mệnh quốc gia.
Vào nửa sau thế kỷ XX, việc sửa chữa chữ Quốc ngữ bắt đầu diễn ra. Trong đó có việc sửa lại chữ viết liên quan đến công cuộc đổi mới giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi hiện nay có hơn 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, cùng với những cái hay và dở của công cuộc đổi mới giáo dục trong nước, dẫn đến những quan niệm và cách sử dụng chữ Quốc ngữ khác nhau.
Từ những năm 1950 ở miền Bắc, chữ Quốc ngữ được giảm bớt bằng cách bỏ dấu gạch ngang giữa từ ghép và tên riêng, ví dụ: tự do tự tại. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là vào năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, người ta đã đặt ra yêu cầu sử dụng gạch nối ở dòng tên ở mặt chính là Hồ Chí Minh.
Dưới đây là một số chia sẻ của chúng tôi về Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Quý khách hàng theo dõi bài viết, có vấn đề gì khác vui lòng báo trực tiếp để chúng tôi hỗ trợ nhanh chóng và tận tình nhất.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: justify;”>Chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức (trên thực tế) hiện nay của tiếng Việt; là một tập hợp các ký tự sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên bảng chữ cái của các ngôn ngữ Romance…
Vì thế Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Quý khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết để biết thêm nhiều thông tin hữu ích.
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Trong khoảng từ thế kỷ XV đến XVII, các thương nhân Bồ Đào Nha đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Theo bước chân của họ là các nhà truyền giáo, chủ yếu là người Bồ Đào Nha và Ý, đồng hành với các nhà truyền giáo ở những nơi mới trên thế giới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính, trong số 145 giáo sĩ đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615 đến năm 1788, có 74 người quốc tịch Bồ Đào Nha và 30 người quốc tịch Ý.
Các tu sĩ dòng Tên của Cơ đốc giáo là những người truyền giáo trong thời kỳ đó. Theo luật của dòng này, mỗi khi đến vùng đất mới, các sư thầy phải học tiếng địa phương. Với tài năng của mình, họ đã La tinh hóa các ngôn ngữ và chữ viết địa phương của vùng đất mới để những người theo đạo có thể đọc và hiểu kinh sách của các tôn giáo.
Chữ viết Latinh này sẽ được chuyển cho các nhà truyền giáo sau này. Đây là phương pháp mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Brazil, …. Vào thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng vùng Viễn Đông, lệnh đã thành lập một đại bản doanh tại Ma Cao để làm nơi đi và đến của các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ XVII, năm 1615, các tu sĩ Dòng Tên đến Nam Kỳ và lần đầu tiên họ học tiếng Việt. Sau đó, các nhà truyền giáo này bắt tay vào việc Latinh hóa chữ Việt.
Văn bản chép tay của linh mục João Roiz (người Bồ Đào Nha) viết năm 1621, có các chữ quốc ngữ nguyên thủy như Annam (Đàng Trong, lúc này nước ta chưa có đất phương Nam), Cacham (Kẻ Chàm, sau là Thanh Chiêm) , Sinoa (từ Hoa, tức Thuận Hóa), unsai (anh sai), ungue (anh Nghệ), …
Chữ Việt trong bản báo cáo của Gapar Louis (quốc tịch Bồ Đào Nha) viết năm 1621 còn có các chữ ungué (ông Nghè) và banco (bảng cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Đất đai Nam Kỳ, đã cùng Francesco de Pina đến Nam Kỳ lập đại bản doanh Nước Mặn (Bình Định) vào năm 1618. Trong tác phẩm viết năm 1621 có kiểu chữ: Tunchim (Đông Kinh tức Hà Nội), Ainam (Hải Nam), Lai (Lào), Quanguya (Quảng Nghĩa), kemoi (rợ, đất của mọi, Tây Nguyên), Quiignin (Quy Nhơn), dàdèn lạt (thời), chià (chè ), nayre (cầu nguyện), doij (đói), sayc kim (kinh), cò (vâng). Cũng trong năm 1621, nhà truyền giáo Bozumi đã viết các loại chữ: onsaij (ông nội), Nuoecman (Nước Mặn), Quanghia (Quảng Nghĩa), da an nua (có ăn lại), …
Như vậy, cho đến năm 1621, việc Latinh hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu trọng âm. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, được viết vào năm 1626 cho thấy sự xuất hiện của dấu trọng âm. Digcham (Cung điện Chăm), Sinua (tỉnh Hoa), Nuocman (Nước Mán), Ondedoc (đô đốc); hài hước giễu cợt, sh * t sh * t (đặc biệt không, không phải hay nhất).
Dựa trên bản tái bút của Pina, được tìm thấy trong Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha vào giữa năm 2018, chữ quốc ngữ có giọng giống như ngày nay. Tài liệu này được trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7/2018.
Chữ Quốc Ngữ là gì?
Chữ Quốc ngữ là hệ thống chữ viết chính thức (trên thực tế) hiện nay của tiếng Việt; là một hệ thống chữ viết sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên bảng chữ cái La Mã, đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, Chương I, Điều 5, Mục 3 đã ghi rõ: “Chữ quốc ngữ là tiếng Việt”, khẳng định tiếng Việt là quốc ngữ của nước ta. Tuy nhiên, hiến pháp không đề cập đến “chữ quốc ngữ”, bởi vì những cải cách trong quá trình giáo dục đã để lại những khác biệt về chính tả và phiên âm trong chữ viết. Kết quả là không thể xây dựng các quy tắc thống nhất nhất quán về chữ quốc ngữ trong cộng đồng nói tiếng Việt.
Tên “quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ quốc ngữ trong tiếng Latinh lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1867 trên tờ Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ viết của phương Tây. Về sau, chữ Tây bị lược bỏ, chỉ còn lại chữ quốc ngữ; và cái tên Western lúc bấy giờ đã được đổi để dùng cho tiếng Pháp. Quốc ngữ là quốc ngữ của Việt Nam. Nếu không có bổ ngữ đi kèm cho từ quốc ngữ dùng để chỉ ngôn ngữ khác thì quốc ngữ được mặc định là chỉ tiếng Việt.
Lịch sử chữ quốc ngữ
Cho đến thế kỷ 17, tiếng Việt đã phong phú và rõ ràng. Một số nhà truyền giáo phương Tây đã học tiếng Việt để truyền bá đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Họ dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt.
Người Bồ Đào Nha đến Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII. Họ thường đi lại, buôn bán bằng đường biển và sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Hội An, một thương cảng phồn hoa thời bấy giờ.
Theo chân các thương nhân, Hội An đã tiếp nhận nhiều nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đến truyền bá đạo Thiên chúa. Họ học tiếng Á rất nhanh.
Người khá rành tiếng Việt là Francesco de Pina. Ông cũng biết nhiều ngôn ngữ châu Á khác và trở thành thầy dạy của các nhà sư đến sau.
Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, người Bồ Đào Nha, là hai nhà truyền giáo đã phát minh ra cách dùng ký tự Latinh để ghi âm tiếng Việt, mà sau này được gọi là quốc ngữ, từ năm 1638.
Ban đầu, họ tạo ra các ký tự tiếng Việt để sử dụng trong các hội. Nhưng khi người Việt Nam nắm bắt được lối viết này, họ hiểu ngay rằng đó là một phương tiện thông tin, giáo dục tuyệt vời và ngay lập tức được sử dụng làm chữ quốc ngữ.
Lịch sử phát triển của chữ quốc ngữ từ thế kỷ 20 đến nay
Vào thế kỷ 20, chính phủ Đông Pháp giao cho Nha Học dạy chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Cả nước bắt đầu cùng nhau học chữ Quốc ngữ. Ngày 28 tháng 12 năm 1918, kỳ thi chính thức bị bãi bỏ và chữ Quốc ngữ từ đó trở thành một hình thức phổ biến ở Việt Nam. Học chữ Quốc ngữ lúc bấy giờ không chỉ là phương tiện để đọc, viết mà còn để vận động chính trị và vận mệnh quốc gia.
Vào nửa sau thế kỷ XX, việc sửa chữa chữ Quốc ngữ bắt đầu diễn ra. Trong đó có việc sửa lại chữ viết liên quan đến công cuộc đổi mới giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi hiện nay có hơn 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, cùng với những cái hay và dở của công cuộc đổi mới giáo dục trong nước, dẫn đến những quan niệm và cách sử dụng chữ Quốc ngữ khác nhau.
Từ những năm 1950 ở miền Bắc, chữ Quốc ngữ được giảm bớt bằng cách bỏ dấu gạch ngang giữa từ ghép và tên riêng, ví dụ: tự do tự tại. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là vào năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, người ta đã đặt ra yêu cầu sử dụng gạch nối ở dòng tên ở mặt chính là Hồ Chí Minh.
Dưới đây là một số chia sẻ của chúng tôi về Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Quý khách hàng theo dõi bài viết, có vấn đề gì khác vui lòng báo trực tiếp để chúng tôi hỗ trợ nhanh chóng và tận tình nhất.
[/box]
#Chữ #quốc #ngữ #đời #trong #hoàn #cảnh #nào
[/toggle]
Bạn thấy bài viết
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Văn học
#Chữ #quốc #ngữ #đời #trong #hoàn #cảnh #nào
Trả lời