Cảm nhận về 4 câu đầu bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn hay nhất. Thông qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Nêu cảm nhận của em về 4 câu đầu của bài Tự tình 2
1. Mở bài
– Giới thiệu tác phẩm “Tự tình II” và 4 dòng đầu bài thơ:
Ví dụ: Bài thơ Tự tình II nằm trong chùm ba bài thơ thể hiện rõ giọng điệu và cá tính độc đáo của tác giả Hồ Xuân Hương. Bốn dòng đầu của bài thơ đã làm nổi bật hoàn cảnh cũng như tâm trạng buồn bã, phẫn uất muốn vượt lên số phận của nữ sĩ ca sĩ.
2. Cơ thể
#M862105ScriptRootC1420804 { chiều cao tối thiểu: 300px; }
– Hai câu thơ đầu mở ra cảm nhận về thời gian và tâm trạng của nữ sĩ
+ Cảm nhận về thời gian: Thời gian: đêm khuya. Tiếng trống đặt trong tiếng dồn dập, gấp gáp của “tiếng trống cung đình” cho thấy nữ ca sĩ cảm nhận sâu sắc bước đi không ngừng, vội vã của thời gian.
Cảm nhận tâm trạng: cảm nhận rõ nỗi tủi nhục của thân phận mình. Tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ, từ “trơ” được đặt ở đầu câu để nhấn mạnh. “Trơ” có nghĩa là tủi nhục, nhục nhã, cho thấy “Bà mẹ thơ Nôm” đã ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu của chính mình. Hai chữ “hồng nhan” đặt cạnh danh từ chỉ bộ phận “nữ nhi” gợi lên sự tủi nhục, bất hạnh của kiếp người đàn bà.
– Bức tranh tâm trạng được chiếu rõ hơn qua hai câu thơ tiếp theo
+ Điệp ngữ “say mới tỉnh” gợi vòng quay, luẩn quẩn, bế tắc của kiếp người cay đắng.
+ Hình ảnh “vầng trăng” xuất hiện là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời của nữ sĩ: trạng thái “bóng chiều” sắp tàn mà còn “dở dang”, nhấn mạnh bi kịch của ý thức về thân phận: tuổi xuân đã qua, nhưng số phận mãi mãi dang dở, không trọn vẹn.
→ Bức tranh ngoại cảnh đồng nhất với bức tranh tâm trạng.
3. Kết luận
– Tóm lại nội dung ý nghĩa của 4 câu thơ: qua việc sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm kết hợp với các biện pháp tu từ đảo ngữ và sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh, 4 câu thơ đầu của bài thơ Tự tình II đã làm nổi bật ý nghĩa thời gian, thể hiện tâm trạng buồn cũng như sự cảm nhận sâu sắc về số phận bi thảm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương.
Bài văn mẫu Cảm nhận về 4 câu đầu của bài Tự tình 2
“Thân em như lụa đào
Chập chờn giữa chợ biết vào tay ai”
(Dân gian)
Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ luôn là tấm gương chịu sự bất công, bất công. Sống trong một xã hội có quan điểm “trọng nam khinh nữ”, có những người im lặng, cam chịu nhưng cũng có những người ý thức sâu sắc bi kịch của chính mình và lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những người phụ nữ làm được điều đó. Bài thơ Tự tình II là tập thơ gồm ba bài đã thể hiện rõ điều này. Bốn dòng đầu của bài thơ đã làm nổi bật hoàn cảnh cũng như tâm trạng buồn bã, phẫn uất muốn vượt lên số phận của người nữ sĩ:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Mặt hồng hào với nước ngọt
Một chén hương đưa cơn say về tỉnh
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Tâm trạng của tác giả đã được gợi lên trong đêm khuya, và cảm thức về thời gian đã được tô đậm, nhấn mạnh làm cơ sở cho cảm thức tâm trạng:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Trần mặt hồng với nước non”
Tiếng trống đặt trong tiếng dồn dập, gấp gáp của “tiếng trống cung đình” cho thấy nữ ca sĩ cảm nhận sâu sắc bước đi không ngừng, vội vã của thời gian. Trong bài thơ Tự tình tôi ta cũng đã bắt gặp ý thức về thời gian: “Tiếng gà gáy trên bom đạn”. Từ “nuốt” được dùng để diễn tả rõ nét sự hụt hẫng, lo âu trong tâm trạng. Đối với Hồ Xuân Hương, cảm nhận về thời gian trôi qua chính là sự bối rối trong tâm trạng.
Trong thời gian hoạt động nghệ thuật ấy, nữ sĩ cảm nhận rõ nỗi tủi nhục thân phận: “Hồng nhan bạc phận với nước non”. Trong câu thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ, từ “trơ” được đặt ở đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. Xét về sắc thái ngữ nghĩa, “trơ” có nghĩa là tủi nhục, nhục nhã, cho thấy “bà chúa thơ Nôm” đã ý thức sâu sắc về bi kịch tình yêu của chính mình. Ta cũng đã từng bắt gặp từ “trơ” mang sắc thái tương tự khi Nguyễn Du viết về nàng Kiều: “Đèn hoa bỏ đó, nàng nằm xuống” (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du). Nhưng với Hồ Xuân Hương, bà không chỉ ý thức về số phận của mình mà còn trực tiếp mỉa mai một cách sâu sắc và cay đắng. Hai chữ “hồng nhan” đặt cạnh danh từ chỉ bộ phận “nữ nhi” gợi lên sự tủi nhục, bất hạnh của kiếp người đàn bà. Bức tranh tâm trạng được chiếu rõ hơn qua hai câu thơ tiếp theo:
“Một chén hương cho tỉnh cơn say
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Cụm từ “say rồi tỉnh” gợi lên vòng quay, luẩn quẩn, vướng bận của một kiếp người cay đắng: càng đắm mình trong men say, càng tỉnh táo để nhận ra bi kịch của chính mình. Hình ảnh “vầng trăng” hiện lên là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời của nữ sĩ. Người xưa đã từng nói về mối quan hệ biện chứng giữa bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm trạng: “Người buồn bao giờ cũng vui”. Còn với nữ ca sĩ, lúc này ngoại cảnh và tâm trạng đã hòa làm một. Hình ảnh “vầng trăng” trong tình trạng “bóng tối”, sắp tàn mà còn “dở dang” càng nhấn mạnh bi kịch của ý thức thân phận: tuổi trẻ đã qua, mà mối nhân duyên thì mãi dang dở. dở dở dang. Điều này xuất phát từ câu chuyện tình trắc trở của nữ ca sĩ: tình yêu tuổi trẻ không có kết quả, hai lần phải chấp nhận lý do và cả hai lần cô đều góa chồng.
Như vậy, qua việc sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm kết hợp với các biện pháp tu từ đảo ngữ và sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh, bốn câu đầu của bài thơ “Tự tình II” đã làm nổi bật cảm giác về thời gian, đồng thời cũng thể hiện tâm trạng buồn. như sự cảm nhận sâu sắc về số phận bi thảm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Chính những yếu tố đó đã giúp cô trở thành một người phụ nữ. “Bà chúa thơ Nôm” cũng là một nữ thi sĩ viết về phụ nữ với giọng điệu đồng cảm, dũng cảm tự giác.
“Thân em như lụa đào
Chập chờn giữa chợ biết vào tay ai”
(Dân gian)
Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ luôn là tấm gương chịu sự bất công, bất công. Sống trong một xã hội có quan điểm “trọng nam khinh nữ”, có những người im lặng, cam chịu nhưng cũng có những người ý thức sâu sắc bi kịch của chính mình và lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những người phụ nữ làm được điều đó. Bài thơ Tự tình II là tập thơ gồm ba bài đã thể hiện rõ điều này. Bốn dòng đầu của bài thơ đã làm nổi bật hoàn cảnh cũng như tâm trạng buồn bã, phẫn uất muốn vượt lên số phận của người nữ sĩ:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Mặt hồng hào với nước ngọt
Một chén hương đưa cơn say về tỉnh
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Tâm trạng của tác giả đã được gợi lên trong đêm khuya, và cảm thức về thời gian đã được tô đậm, nhấn mạnh làm cơ sở cho cảm thức tâm trạng:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Trần mặt hồng với nước non”
Tiếng trống đặt trong tiếng dồn dập, gấp gáp của “tiếng trống cung đình” cho thấy nữ ca sĩ cảm nhận sâu sắc bước đi không ngừng, vội vã của thời gian. Trong bài thơ Tự tình tôi ta cũng đã bắt gặp ý thức về thời gian: “Tiếng gà gáy trên bom đạn”. Từ “nuốt” được dùng để diễn tả rõ nét sự hụt hẫng, lo âu trong tâm trạng. Đối với Hồ Xuân Hương, cảm nhận về thời gian trôi qua chính là sự bối rối trong tâm trạng. Trong thời gian hoạt động nghệ thuật ấy, nữ sĩ cảm nhận rõ nỗi tủi nhục thân phận: “Hồng nhan bạc phận với nước non”. Trong câu thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ, từ “trơ” được đặt ở đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. Xét về sắc thái ngữ nghĩa, “trơ” có nghĩa xấu hổ, bẽ bàng, cho thấy “Bà mẹ thơ Nôm” đã ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu của chính mình. Ta cũng đã từng bắt gặp từ “trơ” với một sắc thái tương tự khi Nguyễn Du viết về Kiều: “Đèn hoa để đó, nàng nằm xuống” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhưng với Hồ Xuân Hương, bà không chỉ ý thức về số phận của mình mà còn trực tiếp mỉa mai một cách sâu sắc và cay đắng. Hai chữ “hồng nhan” đặt cạnh danh từ chỉ bộ phận “nữ nhi” gợi lên sự tủi nhục, bất hạnh của kiếp người đàn bà.
Bức tranh tâm trạng được chiếu rõ hơn qua hai câu thơ tiếp theo:
“Một chén hương cho tỉnh cơn say
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Cụm từ “say rồi tỉnh” gợi lên vòng quay, luẩn quẩn, vướng bận của một kiếp người cay đắng: càng đắm mình trong men say, càng tỉnh táo để nhận ra bi kịch của chính mình. Hình ảnh “vầng trăng” hiện lên là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời của nữ sĩ. Người xưa đã từng nói về mối quan hệ biện chứng giữa bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm trạng: “Người buồn bao giờ cũng vui”. Còn với nữ ca sĩ, lúc này ngoại cảnh và tâm trạng đã hòa làm một. Hình ảnh “vầng trăng” trong tình trạng “bóng tối”, sắp tàn mà còn “dở dang” càng nhấn mạnh bi kịch của ý thức thân phận: tuổi trẻ đã qua, mà mối nhân duyên thì mãi dang dở. dở dở dang. Điều này xuất phát từ câu chuyện tình trắc trở của nữ ca sĩ: tình yêu tuổi trẻ không có kết quả, hai lần phải chấp nhận lý do và cả hai lần cô đều góa chồng.
Như vậy, qua việc sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm kết hợp với các biện pháp tu từ đảo ngữ và sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh, bốn câu đầu của bài thơ “Tự tình II” đã làm nổi bật cảm giác về thời gian, đồng thời cũng thể hiện tâm trạng buồn. như sự cảm nhận sâu sắc về số phận bi thảm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Chính những yếu tố đó đã giúp cô trở thành một người phụ nữ. “Bà chúa thơ Nôm” cũng là một nữ thi sĩ viết về phụ nữ với giọng điệu đồng cảm, dũng cảm tự giác.
Tham khảo: Phân tích 2 câu kết bài Tự Tình 2
…/…
Từ phác thảo Cảm nghĩ về 4 câu đầu của Tự Tình 2 mà Top loigiai đã hướng dẫn ở trên, các em hãy vận dụng những kiến thức đã học, kết hợp với cách hành văn của mình để viết thành một bài viết hoàn chỉnh. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 11 hay nhất phục vụ cho việc học văn của các em. Chúc các bạn luôn vui vẻ và học tập tốt!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Văn lớp 11 , Ngữ Văn 11
Bạn thấy bài viết Cảm nhận về 4 câu đầu bài Tự tình 2 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận về 4 câu đầu bài Tự tình 2 bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Giáo dục
Trả lời