Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến của Quang Dũng, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Dàn ý cụ thể Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
1. Mở bài
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh lúc ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời kì.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều từng lớp không giống nhau, trong đó có cả học trò, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng văn pháp lãng mạn, thấm đẫm ý thức bi tráng.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng văn pháp lãng mạn với thiên hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào giác quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một ko khí, sẵn sàng cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), tới đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp lạ mắt và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã tuyển lựa những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng nói chung những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến xuất hiện đầy uy phong và dữ dội khác thường. Thực tiễn gian truân thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng ko hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm nhưng ko yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái uy phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ uy phong, lẫm liệt đấy còn được trình bày quan ánh mắt tức giận (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn hình thức của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rộn rực, khát khao yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Tương tự, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến ko chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ hình thức nhưng con trình bày được cả toàn cầu tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:
– Lúc viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng ko gây cảm giác bi quan, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi tráng:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Lúc mô tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng ko hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi quan. Cảm hứng của ông mỗi lúc chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của ý thức lãng mạn. Chính vì vậy nhưng hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ tản mạn nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thực bi thương những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường ko có tới cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của thi sĩ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương đấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được thi sĩ mô tả thật trang trọng. Cái chết đấy đã tạo được sự cảm thương thâm thúy ở tự nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng tống biệt vong hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những người hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi ko trở lại.
3. Kết bài
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa lạ mắt vừa nhiều chủng loại của ngòi bút Quang Dũng. Thi sĩ đã thông minh được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, mô tả được vẻ đẹp ý thức của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi ko trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã mô tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện cơ quan sưu tầm hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất lạ mắt của mình.
Các em vừa tham khảo qua dàn ý cụ thể cảm nhận về hình tượng người lính trong đoạn thứ ba bài thơ Tây Tiến. Kỳ vọng với dàn ý cụ thể này em hoàn toàn có thể tự triển khai ý để viết được một bài văn hay. Các em cũng có thể tham khảo qua một số bài văn mẫu của chúng tôi dưới đây:
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự liên kết thuần thục giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng đấu tranh và phẩm chất hy sinh quả cảm. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các cụ thể như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức quyến rũ. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ nhấp nhánh dần lên, tới lúc người lính Tây Tiến đương đầu với dịch bệnh, đương đầu với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân đấy thôi nhưng lúc dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “ko mọc tóc” là đảo thế tiêu cực thành chủ động. Ko còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình ko mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các cụ thể “ko mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian truân khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc thù. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc ko mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy đấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi trội vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén phẫn uất tới cao độ như có khả năng thiêu cháy quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi trội ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được nhắc đến tới với tất cả thực trạng mỏi mệt, vất vả qua các từ “ko mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này nhưng chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng lúc bom đạn yên rồi giấc mộng đấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hứa hẹn ước. Một ngày về trong thắng lợi để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ tản mạn trên đường hành quân, nhưng ko thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương quốc gia sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lúc cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh quân nhân cụ Hồ ngày nay đấu tranh hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng ko khí cổ truyền trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian truân ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau lúc hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng chí. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông đấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian truân, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang vu. Câu thơ có cái ko khí chiến trường của bản người hùng ca thời cổ. Câu thơ nhắc đến tới mất mát đau thương nhưng vẫn hùng tráng.
Bốn cấu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông đấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Người nào lên Tây Tiến mùa xuân đấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời khắc thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của quốc gia, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tự nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng tới cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (ý thức của các anh) vẫn đồng hành với đồng chí, vẫn sống trong lòng đồng chí: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 2
Trong những sáng tác của Quang Dũng, nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất mực Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng ko thể quên được hình ảnh đoàn quân đấy:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói tới gian truân, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân đấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rành mạch. Đã thành khuôn sáo lúc nhắc đến tới sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần truồng: chiến sĩ Tây Tiến hồi đấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít nhưng chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ nhưng chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, lạ mắt, không tiền khoáng hậu trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian truân là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn ko nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên giới, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết mổ giặc lập công, và Hà Nội, quê hương dấu yêu – mơ những bóng vía thân yêu. “Dáng kiều thơm”, đấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ đấy là sự thăng bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ ko phải để thối chí nản lòng. Vậy nhưng một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã làm cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Kim cổ chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trường, mấy người nào trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng ko khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, xinh tươi, tới đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn thực chất của sự việc. Hình như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian truân của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt thản nhiên, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người người hùng da ngựa bọc thây nhưng họ tiếp thu được trong văn học sách vở. Một niềm say mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ mô tả, thông báo phổ biến nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi nhưng cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể thờ ơ trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ vinh quang của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của nòi giống.
Trước đây, lúc nhắc tới những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những bộc lộ nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời kì đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào thực chất, có thời đại đấy mới có văn học đấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; kế bên cái bi là cái hùng, kế bên mất mát, đau thương là niềm tự hào người hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 3
Tây Tiến là bài thơ xuất sắc viết về những người người hùng dân tộc – những người lính đã hy sinh trong cuộc kháng hào chiến đấu hùng của quốc gia. Thi sĩ Quang Dũng viết nên bài thơ Tây Tiến với một vẻ đẹp bi tráng nhưng cũng ko kém phần hào hùng lãng mạn. Nét bi tráng đấy được trình bày rõ nhất trong đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ đã khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đọc đoạn thơ, quang cảnh chiến trường nơi Tây Bắc núi non hùng vĩ như xuất hiện ngay trước mắt người đọc. Ở hai câu thơ trước nhất của đoạn thơ, thi sĩ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hiện thực về môi trường khốc liệt nhưng những người lính lúc xưa phải đương đầu. Đó là bệnh tật hoành hành. Nơi rừng thiêng nước độc, núi cao vách đứng trùng trùng như rình rập đòi mạng người, điều kiện sống của những người lính rất khắc nghiệt. Một trong những căn bệnh đáng sợ nhất đó là bệnh sốt rét. Sốt rét làm người lính “ko mọc tóc”. Cách nói giảm nói tránh thật hí hước, cho ta thấy ý thức sáng sủa rất mực của người lính dù trong hoàn cảnh khó khăn. Bệnh sốt rét cũng làm nước da người lính trở thành xanh xao, như hòa mình vào màu xanh của cành lá cây ngụy trang trên mũ, ba lô và vai áo. Bệnh tật dày vò là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn giữ một ý thức đấu tranh quật cường. Họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Những gương mặt “dữ oai hùm” nổi trội lên trong màu xanh lá là hình ảnh để lại cho người đọc một khắc ưu tư về dấu ấn đau thương trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Gian truân và thảm khốc thế, những người lính vẫn mộng mơ đúng như chất lãng mạn của những người thanh niên trẻ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng dệt nên từ ý chí giết mổ giặc đuổi thù, mang lại bình yên độc lập cho dân tộc. Họ dùng đôi mắt trừng trừng của mình để mở to quả cảm đấu tranh với quân địch, với ý chí mạnh mẽ thề sống chết với lũ xâm lược. Cũng chính đôi mắt trừng đấy là ánh nhìn đăm đăm về nơi quê nhà, là đôi mắt có tình, thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của quốc gia nhưng còn rất hào hoa và giàu tình cảm trong cuộc sống. Giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn, giữa hoàn cảnh tính mệnh bị dọa nạt, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội. Những thanh niên vì bảo vệ tổ quốc nhưng ra đi ngày ngày vẫn nhớ về quê hương xưa cũ. Phải chăng đó là ngôi nhà con phố, những trục đường hoa sữa thu thơm phức hay bóng vía kiều diễm thướt tha của người con gái Hà Nội?
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nét bi tráng của người lính Tây Tiến trình bày thật rõ nét qua những câu thơ trên. Họ ra đi, cầm súng bảo vệ quốc gia, và họ ngã xuống hy sinh tráng liệt. Sự hy sinh của những người hùng vô danh đấy làm cho ta cảm thấy thật xót thương và kính phục biết bao. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vừa ngang tàn nhưng cũng vừa cao đẹp. Nơi núi rừng Tây Bắc hoang vu hẻo lánh đấy có bao “mồ viễn xứ” nằm “tản mạn” của những chiến sĩ đã ngã xuống. Chỉ có “áo bào thay chiếu” che thể xác các anh nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn của họ và sự hy sinh bình dị nhưng cao cả đấy. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất Mẹ trên vùng đất quê hương, bình yên một giấc ngủ nghìn thu.
Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như lời khóc thương bi tráng, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, và cao cả. Người lính Tây Tiến ra đi, cả non sông đất trời đều tiếc thương. Thật lớn lao và thiêng liêng biết bao!
Những vần thơ hay và cảm động qua ngòi bút thi sĩ Quang Dũng đã chạm tới trái tim người đọc. Ta cảm phục con người những chiến sĩ và ý thức đấu tranh của các anh. Ta tự hào và hàm ân những người lính của thế hệ đi trước và đau thương cho sự hy sinh thầm lặng nhưng cao cả đấy. Có thể nói, bài thơ Tây Tiến đã giúp bao người con Việt Nam dấy lên lòng yêu nước và lòng hàm ân về những thế hệ người lính cụ Hồ.
Bài thơ Tây Tiến đã khắc tạc một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những người lính Tây Tiến dũng cảm can trường, sẵn sàng đấu tranh và hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Tượng đài đấy mãi mãi đứng sừng sững trong làng văn học Việt Nam và trong trái tim của toàn thể người con đất Việt. Đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến là hình ảnh sắc nét nhất về chân dung người lính Tây Tiến. Nhờ vào hồn thơ tài hoa và văn pháp lãng mạn của thi sĩ Quang Dũng, sự hy sinh thầm lặng của người lính sẽ mãi vang lừng muôn thuở.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Quang Dũng là hồn thơ phúc hậu, hào hoa thanh lịch, yêu tha thiết quê hương quốc gia, có thiên hướng khai thác vẻ đẹp lãng mạn người hùng. Đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Tây Tiến của ông khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau nhưng người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “Đoàn binh ko mọc tóc”, “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, khía cạnh hình ảnh những “Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian truân được nói tới một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu ko mọc tóc vì sốt rét rừng, thế nhưng quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng ko mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính đấy ko chỉ có trong thơ Quang Dũng nhưng còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.
Gian truân và thảm khốc thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mộng giết mổ giặc, đánh tan lũ xâm lược “xác thù chất đống xây thành chiến công”.
Hai chữ “mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía quân địch với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với quân địch. Nhưng đôi mắt trừng đấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa đấy ta thấy, người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông nhưng còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những trục đường mùa thu thơm phức hoa sữa… hay xác thực hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng vía của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ.
Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất đấu tranh. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “đắt” cái phong thái hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa thi sĩ nói về sự hy sinh tráng liệt của những người hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Tản mạn biên giới mồ viễn xứ…”. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất thần trong đoạn thơ (biên giới, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ truyền, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh, có xót xa tiếc thương, ko bi quan yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những thi sĩ trước nhất của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế.
Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian truân đấu tranh hy sinh vẫn sáng sủa yêu đời. Người hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Hai đoạn thơ trên đây trình bày cốt cách và văn pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.
…/…
Tương tự là Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những gợi ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu nêu Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất) ” state=”close”]
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất)
Hình Ảnh về: Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất)
Video về: Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất)
Wiki về Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất)
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất) -
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến của Quang Dũng, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Dàn ý cụ thể Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
1. Mở bài
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh lúc ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời kì.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều từng lớp không giống nhau, trong đó có cả học trò, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng văn pháp lãng mạn, thấm đẫm ý thức bi tráng.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng văn pháp lãng mạn với thiên hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào giác quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một ko khí, sẵn sàng cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), tới đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp lạ mắt và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã tuyển lựa những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng nói chung những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến xuất hiện đầy uy phong và dữ dội khác thường. Thực tiễn gian truân thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng ko hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm nhưng ko yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái uy phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ uy phong, lẫm liệt đấy còn được trình bày quan ánh mắt tức giận (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn hình thức của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rộn rực, khát khao yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Tương tự, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến ko chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ hình thức nhưng con trình bày được cả toàn cầu tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:
– Lúc viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng ko gây cảm giác bi quan, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi tráng:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Lúc mô tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng ko hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi quan. Cảm hứng của ông mỗi lúc chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của ý thức lãng mạn. Chính vì vậy nhưng hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ tản mạn nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thực bi thương những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường ko có tới cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của thi sĩ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương đấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được thi sĩ mô tả thật trang trọng. Cái chết đấy đã tạo được sự cảm thương thâm thúy ở tự nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng tống biệt vong hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những người hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi ko trở lại.
3. Kết bài
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa lạ mắt vừa nhiều chủng loại của ngòi bút Quang Dũng. Thi sĩ đã thông minh được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, mô tả được vẻ đẹp ý thức của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi ko trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã mô tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện cơ quan sưu tầm hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất lạ mắt của mình.
Các em vừa tham khảo qua dàn ý cụ thể cảm nhận về hình tượng người lính trong đoạn thứ ba bài thơ Tây Tiến. Kỳ vọng với dàn ý cụ thể này em hoàn toàn có thể tự triển khai ý để viết được một bài văn hay. Các em cũng có thể tham khảo qua một số bài văn mẫu của chúng tôi dưới đây:
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự liên kết thuần thục giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng đấu tranh và phẩm chất hy sinh quả cảm. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các cụ thể như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức quyến rũ. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ nhấp nhánh dần lên, tới lúc người lính Tây Tiến đương đầu với dịch bệnh, đương đầu với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân đấy thôi nhưng lúc dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “ko mọc tóc” là đảo thế tiêu cực thành chủ động. Ko còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình ko mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các cụ thể “ko mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian truân khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc thù. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc ko mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy đấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi trội vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén phẫn uất tới cao độ như có khả năng thiêu cháy quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi trội ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được nhắc đến tới với tất cả thực trạng mỏi mệt, vất vả qua các từ “ko mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này nhưng chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng lúc bom đạn yên rồi giấc mộng đấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hứa hẹn ước. Một ngày về trong thắng lợi để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ tản mạn trên đường hành quân, nhưng ko thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương quốc gia sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lúc cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh quân nhân cụ Hồ ngày nay đấu tranh hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng ko khí cổ truyền trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian truân ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau lúc hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng chí. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông đấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian truân, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang vu. Câu thơ có cái ko khí chiến trường của bản người hùng ca thời cổ. Câu thơ nhắc đến tới mất mát đau thương nhưng vẫn hùng tráng.
Bốn cấu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông đấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Người nào lên Tây Tiến mùa xuân đấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời khắc thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của quốc gia, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tự nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng tới cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (ý thức của các anh) vẫn đồng hành với đồng chí, vẫn sống trong lòng đồng chí: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 2
Trong những sáng tác của Quang Dũng, nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất mực Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng ko thể quên được hình ảnh đoàn quân đấy:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói tới gian truân, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân đấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rành mạch. Đã thành khuôn sáo lúc nhắc đến tới sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần truồng: chiến sĩ Tây Tiến hồi đấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít nhưng chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ nhưng chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, lạ mắt, không tiền khoáng hậu trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian truân là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn ko nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên giới, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết mổ giặc lập công, và Hà Nội, quê hương dấu yêu – mơ những bóng vía thân yêu. “Dáng kiều thơm”, đấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ đấy là sự thăng bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ ko phải để thối chí nản lòng. Vậy nhưng một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã làm cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Kim cổ chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trường, mấy người nào trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng ko khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, xinh tươi, tới đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn thực chất của sự việc. Hình như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian truân của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt thản nhiên, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người người hùng da ngựa bọc thây nhưng họ tiếp thu được trong văn học sách vở. Một niềm say mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ mô tả, thông báo phổ biến nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi nhưng cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể thờ ơ trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ vinh quang của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của nòi giống.
Trước đây, lúc nhắc tới những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những bộc lộ nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời kì đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào thực chất, có thời đại đấy mới có văn học đấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; kế bên cái bi là cái hùng, kế bên mất mát, đau thương là niềm tự hào người hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 3
Tây Tiến là bài thơ xuất sắc viết về những người người hùng dân tộc – những người lính đã hy sinh trong cuộc kháng hào chiến đấu hùng của quốc gia. Thi sĩ Quang Dũng viết nên bài thơ Tây Tiến với một vẻ đẹp bi tráng nhưng cũng ko kém phần hào hùng lãng mạn. Nét bi tráng đấy được trình bày rõ nhất trong đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ đã khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đọc đoạn thơ, quang cảnh chiến trường nơi Tây Bắc núi non hùng vĩ như xuất hiện ngay trước mắt người đọc. Ở hai câu thơ trước nhất của đoạn thơ, thi sĩ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hiện thực về môi trường khốc liệt nhưng những người lính lúc xưa phải đương đầu. Đó là bệnh tật hoành hành. Nơi rừng thiêng nước độc, núi cao vách đứng trùng trùng như rình rập đòi mạng người, điều kiện sống của những người lính rất khắc nghiệt. Một trong những căn bệnh đáng sợ nhất đó là bệnh sốt rét. Sốt rét làm người lính “ko mọc tóc”. Cách nói giảm nói tránh thật hí hước, cho ta thấy ý thức sáng sủa rất mực của người lính dù trong hoàn cảnh khó khăn. Bệnh sốt rét cũng làm nước da người lính trở thành xanh xao, như hòa mình vào màu xanh của cành lá cây ngụy trang trên mũ, ba lô và vai áo. Bệnh tật dày vò là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn giữ một ý thức đấu tranh quật cường. Họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Những gương mặt “dữ oai hùm” nổi trội lên trong màu xanh lá là hình ảnh để lại cho người đọc một khắc ưu tư về dấu ấn đau thương trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Gian truân và thảm khốc thế, những người lính vẫn mộng mơ đúng như chất lãng mạn của những người thanh niên trẻ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng dệt nên từ ý chí giết mổ giặc đuổi thù, mang lại bình yên độc lập cho dân tộc. Họ dùng đôi mắt trừng trừng của mình để mở to quả cảm đấu tranh với quân địch, với ý chí mạnh mẽ thề sống chết với lũ xâm lược. Cũng chính đôi mắt trừng đấy là ánh nhìn đăm đăm về nơi quê nhà, là đôi mắt có tình, thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của quốc gia nhưng còn rất hào hoa và giàu tình cảm trong cuộc sống. Giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn, giữa hoàn cảnh tính mệnh bị dọa nạt, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội. Những thanh niên vì bảo vệ tổ quốc nhưng ra đi ngày ngày vẫn nhớ về quê hương xưa cũ. Phải chăng đó là ngôi nhà con phố, những trục đường hoa sữa thu thơm phức hay bóng vía kiều diễm thướt tha của người con gái Hà Nội?
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nét bi tráng của người lính Tây Tiến trình bày thật rõ nét qua những câu thơ trên. Họ ra đi, cầm súng bảo vệ quốc gia, và họ ngã xuống hy sinh tráng liệt. Sự hy sinh của những người hùng vô danh đấy làm cho ta cảm thấy thật xót thương và kính phục biết bao. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vừa ngang tàn nhưng cũng vừa cao đẹp. Nơi núi rừng Tây Bắc hoang vu hẻo lánh đấy có bao “mồ viễn xứ” nằm “tản mạn” của những chiến sĩ đã ngã xuống. Chỉ có “áo bào thay chiếu” che thể xác các anh nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn của họ và sự hy sinh bình dị nhưng cao cả đấy. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất Mẹ trên vùng đất quê hương, bình yên một giấc ngủ nghìn thu.
Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như lời khóc thương bi tráng, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, và cao cả. Người lính Tây Tiến ra đi, cả non sông đất trời đều tiếc thương. Thật lớn lao và thiêng liêng biết bao!
Những vần thơ hay và cảm động qua ngòi bút thi sĩ Quang Dũng đã chạm tới trái tim người đọc. Ta cảm phục con người những chiến sĩ và ý thức đấu tranh của các anh. Ta tự hào và hàm ân những người lính của thế hệ đi trước và đau thương cho sự hy sinh thầm lặng nhưng cao cả đấy. Có thể nói, bài thơ Tây Tiến đã giúp bao người con Việt Nam dấy lên lòng yêu nước và lòng hàm ân về những thế hệ người lính cụ Hồ.
Bài thơ Tây Tiến đã khắc tạc một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những người lính Tây Tiến dũng cảm can trường, sẵn sàng đấu tranh và hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Tượng đài đấy mãi mãi đứng sừng sững trong làng văn học Việt Nam và trong trái tim của toàn thể người con đất Việt. Đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến là hình ảnh sắc nét nhất về chân dung người lính Tây Tiến. Nhờ vào hồn thơ tài hoa và văn pháp lãng mạn của thi sĩ Quang Dũng, sự hy sinh thầm lặng của người lính sẽ mãi vang lừng muôn thuở.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Quang Dũng là hồn thơ phúc hậu, hào hoa thanh lịch, yêu tha thiết quê hương quốc gia, có thiên hướng khai thác vẻ đẹp lãng mạn người hùng. Đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Tây Tiến của ông khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau nhưng người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “Đoàn binh ko mọc tóc”, “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, khía cạnh hình ảnh những “Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian truân được nói tới một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu ko mọc tóc vì sốt rét rừng, thế nhưng quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng ko mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính đấy ko chỉ có trong thơ Quang Dũng nhưng còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.
Gian truân và thảm khốc thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mộng giết mổ giặc, đánh tan lũ xâm lược “xác thù chất đống xây thành chiến công”.
Hai chữ “mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía quân địch với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với quân địch. Nhưng đôi mắt trừng đấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa đấy ta thấy, người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông nhưng còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những trục đường mùa thu thơm phức hoa sữa… hay xác thực hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng vía của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ.
Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất đấu tranh. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “đắt” cái phong thái hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa thi sĩ nói về sự hy sinh tráng liệt của những người hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Tản mạn biên giới mồ viễn xứ…”. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất thần trong đoạn thơ (biên giới, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ truyền, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh, có xót xa tiếc thương, ko bi quan yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những thi sĩ trước nhất của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế.
Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian truân đấu tranh hy sinh vẫn sáng sủa yêu đời. Người hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Hai đoạn thơ trên đây trình bày cốt cách và văn pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.
…/…
Tương tự là Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những gợi ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu nêu Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” color: #0000ff;”>Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến của Quang Dũng, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Dàn ý chi tiết Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
1. Mở bài
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:
– Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
3. Kết bài
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.
Các em vừa tham khảo qua dàn ý chi tiết cảm nhận về hình tượng người lính trong đoạn thứ ba bài thơ Tây Tiến. Hy vọng với dàn ý chi tiết này em hoàn toàn có thể tự triển khai ý để viết được một bài văn hay. Các em cũng có thể tham khảo qua một số bài văn mẫu của chúng tôi dưới đây:
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 1
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 2
Trong những sáng tác của Quang Dũng, nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu – mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 3
Tây Tiến là bài thơ xuất sắc viết về những người anh hùng dân tộc – những người lính đã hy sinh trong cuộc kháng chiến hào hùng của đất nước. Nhà thơ Quang Dũng viết nên bài thơ Tây Tiến với một vẻ đẹp bi tráng nhưng cũng không kém phần hào hùng lãng mạn. Nét bi tráng ấy được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ đã khắc họa hình tượng tập thể anh hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đọc đoạn thơ, khung cảnh chiến trường nơi Tây Bắc núi non hùng vĩ như hiện ra ngay trước mắt người đọc. Ở hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ, nhà thơ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hiện thực về môi trường khốc liệt mà những người lính khi xưa phải đối mặt. Đó là bệnh tật hoành hành. Nơi rừng thiêng nước độc, núi cao vách đứng trùng trùng như rình rập đòi mạng người, điều kiện sống của những người lính rất khắc nghiệt. Một trong những căn bệnh đáng sợ nhất đó là bệnh sốt rét. Sốt rét làm người lính “không mọc tóc”. Cách nói giảm nói tránh thật hài hước, cho ta thấy tinh thần lạc quan hết mực của người lính dù trong hoàn cảnh khó khăn. Bệnh sốt rét cũng làm nước da người lính trở nên xanh xao, như hòa mình vào màu xanh của cành lá cây ngụy trang trên mũ, ba lô và vai áo. Bệnh tật dày vò là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn giữ một tinh thần chiến đấu quật cường. Họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Những gương mặt “dữ oai hùm” nổi bật lên trong màu xanh lá là hình ảnh để lại cho người đọc một khắc ưu tư về dấu ấn đau thương trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Gian khổ và ác liệt thế, những người lính vẫn mộng mơ đúng như chất lãng mạn của những người thanh niên trẻ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng dệt nên từ ý chí giết giặc đuổi thù, mang lại bình yên độc lập cho dân tộc. Họ dùng đôi mắt trừng trừng của mình để mở to anh dũng chiến đấu với kẻ thù, với ý chí mạnh mẽ thề sống chết với lũ xâm lược. Cũng chính đôi mắt trừng ấy là ánh nhìn đăm đăm về nơi quê nhà, là đôi mắt có tình, thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của đất nước mà còn rất hào hoa và giàu tình cảm trong cuộc sống. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, giữa hoàn cảnh tính mạng bị đe dọa, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội. Những thanh niên vì bảo vệ tổ quốc mà ra đi ngày ngày vẫn nhớ về quê hương xưa cũ. Phải chăng đó là ngôi nhà con phố, những con đường hoa sữa thu thơm lừng hay bóng dáng kiều diễm thướt tha của người con gái Hà Nội?
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nét bi tráng của người lính Tây Tiến thể hiện thật rõ nét qua những câu thơ trên. Họ ra đi, cầm súng bảo vệ đất nước, và họ ngã xuống hy sinh tráng liệt. Sự hy sinh của những anh hùng vô danh ấy làm cho ta cảm thấy thật xót thương và kính phục biết bao. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vừa ngang tàn mà cũng vừa cao đẹp. Nơi núi rừng Tây Bắc hoang vu hẻo lánh ấy có bao “mồ viễn xứ” nằm “rải rác” của những chiến sĩ đã ngã xuống. Chỉ có “áo bào thay chiếu” che thân xác các anh nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn của họ và sự hy sinh bình dị mà cao cả ấy. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất Mẹ trên vùng đất quê hương, bình yên một giấc ngủ nghìn thu.
Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như lời khóc thương bi tráng, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, và cao cả. Người lính Tây Tiến ra đi, cả non sông đất trời đều thương tiếc. Thật vĩ đại và thiêng liêng biết bao!
Những vần thơ hay và cảm động qua ngòi bút nhà thơ Quang Dũng đã chạm đến trái tim người đọc. Ta cảm phục con người những chiến sĩ và tinh thần chiến đấu của các anh. Ta tự hào và biết ơn những người lính của thế hệ đi trước và đau thương cho sự hy sinh thầm lặng mà cao cả ấy. Có thể nói, bài thơ Tây Tiến đã giúp bao người con Việt Nam dấy lên lòng yêu nước và lòng biết ơn về những thế hệ người lính cụ Hồ.
Bài thơ Tây Tiến đã khắc tạc một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những người lính Tây Tiến dũng cảm can trường, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Tượng đài ấy mãi mãi đứng sừng sững trong làng văn học Việt Nam và trong trái tim của toàn thể người con đất Việt. Đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến là hình ảnh sắc nét nhất về chân dung người lính Tây Tiến. Nhờ vào hồn thơ tài hoa và bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, sự hy sinh thầm lặng của người lính sẽ mãi vang danh muôn đời.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Quang Dũng là hồn thơ đôn hậu, hào hoa thanh lịch, yêu tha thiết quê hương đất nước, có khuynh hướng khai thác vẻ đẹp lãng mạn anh hùng. Đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Tây Tiến của ông khắc họa hình tượng tập thể anh hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “Đoàn binh không mọc tóc”, “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ được nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “xác thù chất đống xây thành chiến công”.
Hai chữ “mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với kẻ thù. Nhưng đôi mắt trừng ấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa ấy ta thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ.
Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất chiến đấu. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ…”. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh, có xót xa thương tiếc, không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế.
Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.
…/…
Như vậy là Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa cung cấp những gợi ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu nêu Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[/box]
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_3_plain]
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến của Quang Dũng, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Xem nhanh nội dung1 Dàn ý cụ thể Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến2 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 13 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 24 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 35 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Dàn ý cụ thể Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
1. Mở bài
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh lúc ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời kì.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều từng lớp không giống nhau, trong đó có cả học trò, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng văn pháp lãng mạn, thấm đẫm ý thức bi tráng.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng văn pháp lãng mạn với thiên hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào giác quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một ko khí, sẵn sàng cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), tới đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp lạ mắt và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã tuyển lựa những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng nói chung những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến xuất hiện đầy uy phong và dữ dội khác thường. Thực tiễn gian truân thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng ko hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm nhưng ko yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái uy phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ uy phong, lẫm liệt đấy còn được trình bày quan ánh mắt tức giận (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn hình thức của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rộn rực, khát khao yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Tương tự, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến ko chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ hình thức nhưng con trình bày được cả toàn cầu tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:
– Lúc viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng ko gây cảm giác bi quan, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi tráng:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Lúc mô tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng ko hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi quan. Cảm hứng của ông mỗi lúc chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của ý thức lãng mạn. Chính vì vậy nhưng hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ tản mạn nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thực bi thương những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường ko có tới cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của thi sĩ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương đấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được thi sĩ mô tả thật trang trọng. Cái chết đấy đã tạo được sự cảm thương thâm thúy ở tự nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng tống biệt vong hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những người hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi ko trở lại.
3. Kết bài
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa lạ mắt vừa nhiều chủng loại của ngòi bút Quang Dũng. Thi sĩ đã thông minh được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, mô tả được vẻ đẹp ý thức của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi ko trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã mô tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện cơ quan sưu tầm hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất lạ mắt của mình.
Các em vừa tham khảo qua dàn ý cụ thể cảm nhận về hình tượng người lính trong đoạn thứ ba bài thơ Tây Tiến. Kỳ vọng với dàn ý cụ thể này em hoàn toàn có thể tự triển khai ý để viết được một bài văn hay. Các em cũng có thể tham khảo qua một số bài văn mẫu của chúng tôi dưới đây:
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 1
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự liên kết thuần thục giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng đấu tranh và phẩm chất hy sinh quả cảm. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các cụ thể như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức quyến rũ. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ nhấp nhánh dần lên, tới lúc người lính Tây Tiến đương đầu với dịch bệnh, đương đầu với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân đấy thôi nhưng lúc dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “ko mọc tóc” là đảo thế tiêu cực thành chủ động. Ko còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình ko mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các cụ thể “ko mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian truân khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc thù. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc ko mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy đấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi trội vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén phẫn uất tới cao độ như có khả năng thiêu cháy quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi trội ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được nhắc đến tới với tất cả thực trạng mỏi mệt, vất vả qua các từ “ko mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này nhưng chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng lúc bom đạn yên rồi giấc mộng đấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hứa hẹn ước. Một ngày về trong thắng lợi để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ tản mạn trên đường hành quân, nhưng ko thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương quốc gia sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lúc cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh quân nhân cụ Hồ ngày nay đấu tranh hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng ko khí cổ truyền trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian truân ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau lúc hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng chí. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông đấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian truân, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang vu. Câu thơ có cái ko khí chiến trường của bản người hùng ca thời cổ. Câu thơ nhắc đến tới mất mát đau thương nhưng vẫn hùng tráng.
Bốn cấu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông đấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Người nào lên Tây Tiến mùa xuân đấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời khắc thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của quốc gia, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tự nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng tới cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (ý thức của các anh) vẫn đồng hành với đồng chí, vẫn sống trong lòng đồng chí: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 2
Trong những sáng tác của Quang Dũng, nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất mực Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng ko thể quên được hình ảnh đoàn quân đấy:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói tới gian truân, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân đấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rành mạch. Đã thành khuôn sáo lúc nhắc đến tới sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần truồng: chiến sĩ Tây Tiến hồi đấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít nhưng chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ nhưng chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, lạ mắt, không tiền khoáng hậu trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian truân là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn ko nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên giới, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết mổ giặc lập công, và Hà Nội, quê hương dấu yêu – mơ những bóng vía thân yêu. “Dáng kiều thơm”, đấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ đấy là sự thăng bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ ko phải để thối chí nản lòng. Vậy nhưng một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã làm cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Kim cổ chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trường, mấy người nào trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng ko khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, xinh tươi, tới đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn thực chất của sự việc. Hình như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian truân của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt thản nhiên, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người người hùng da ngựa bọc thây nhưng họ tiếp thu được trong văn học sách vở. Một niềm say mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ mô tả, thông báo phổ biến nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi nhưng cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể thờ ơ trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ vinh quang của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của nòi giống.
Trước đây, lúc nhắc tới những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những bộc lộ nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời kì đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào thực chất, có thời đại đấy mới có văn học đấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; kế bên cái bi là cái hùng, kế bên mất mát, đau thương là niềm tự hào người hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 3
Tây Tiến là bài thơ xuất sắc viết về những người người hùng dân tộc – những người lính đã hy sinh trong cuộc kháng hào chiến đấu hùng của quốc gia. Thi sĩ Quang Dũng viết nên bài thơ Tây Tiến với một vẻ đẹp bi tráng nhưng cũng ko kém phần hào hùng lãng mạn. Nét bi tráng đấy được trình bày rõ nhất trong đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ đã khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đọc đoạn thơ, quang cảnh chiến trường nơi Tây Bắc núi non hùng vĩ như xuất hiện ngay trước mắt người đọc. Ở hai câu thơ trước nhất của đoạn thơ, thi sĩ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hiện thực về môi trường khốc liệt nhưng những người lính lúc xưa phải đương đầu. Đó là bệnh tật hoành hành. Nơi rừng thiêng nước độc, núi cao vách đứng trùng trùng như rình rập đòi mạng người, điều kiện sống của những người lính rất khắc nghiệt. Một trong những căn bệnh đáng sợ nhất đó là bệnh sốt rét. Sốt rét làm người lính “ko mọc tóc”. Cách nói giảm nói tránh thật hí hước, cho ta thấy ý thức sáng sủa rất mực của người lính dù trong hoàn cảnh khó khăn. Bệnh sốt rét cũng làm nước da người lính trở thành xanh xao, như hòa mình vào màu xanh của cành lá cây ngụy trang trên mũ, ba lô và vai áo. Bệnh tật dày vò là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn giữ một ý thức đấu tranh quật cường. Họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Những gương mặt “dữ oai hùm” nổi trội lên trong màu xanh lá là hình ảnh để lại cho người đọc một khắc ưu tư về dấu ấn đau thương trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Gian truân và thảm khốc thế, những người lính vẫn mộng mơ đúng như chất lãng mạn của những người thanh niên trẻ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng dệt nên từ ý chí giết mổ giặc đuổi thù, mang lại bình yên độc lập cho dân tộc. Họ dùng đôi mắt trừng trừng của mình để mở to quả cảm đấu tranh với quân địch, với ý chí mạnh mẽ thề sống chết với lũ xâm lược. Cũng chính đôi mắt trừng đấy là ánh nhìn đăm đăm về nơi quê nhà, là đôi mắt có tình, thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của quốc gia nhưng còn rất hào hoa và giàu tình cảm trong cuộc sống. Giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn, giữa hoàn cảnh tính mệnh bị dọa nạt, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội. Những thanh niên vì bảo vệ tổ quốc nhưng ra đi ngày ngày vẫn nhớ về quê hương xưa cũ. Phải chăng đó là ngôi nhà con phố, những trục đường hoa sữa thu thơm phức hay bóng vía kiều diễm thướt tha của người con gái Hà Nội?
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nét bi tráng của người lính Tây Tiến trình bày thật rõ nét qua những câu thơ trên. Họ ra đi, cầm súng bảo vệ quốc gia, và họ ngã xuống hy sinh tráng liệt. Sự hy sinh của những người hùng vô danh đấy làm cho ta cảm thấy thật xót thương và kính phục biết bao. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vừa ngang tàn nhưng cũng vừa cao đẹp. Nơi núi rừng Tây Bắc hoang vu hẻo lánh đấy có bao “mồ viễn xứ” nằm “tản mạn” của những chiến sĩ đã ngã xuống. Chỉ có “áo bào thay chiếu” che thể xác các anh nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn của họ và sự hy sinh bình dị nhưng cao cả đấy. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất Mẹ trên vùng đất quê hương, bình yên một giấc ngủ nghìn thu.
Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như lời khóc thương bi tráng, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, và cao cả. Người lính Tây Tiến ra đi, cả non sông đất trời đều tiếc thương. Thật lớn lao và thiêng liêng biết bao! Những vần thơ hay và cảm động qua ngòi bút thi sĩ Quang Dũng đã chạm tới trái tim người đọc. Ta cảm phục con người những chiến sĩ và ý thức đấu tranh của các anh. Ta tự hào và hàm ân những người lính của thế hệ đi trước và đau thương cho sự hy sinh thầm lặng nhưng cao cả đấy. Có thể nói, bài thơ Tây Tiến đã giúp bao người con Việt Nam dấy lên lòng yêu nước và lòng hàm ân về những thế hệ người lính cụ Hồ.
Bài thơ Tây Tiến đã khắc tạc một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những người lính Tây Tiến dũng cảm can trường, sẵn sàng đấu tranh và hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Tượng đài đấy mãi mãi đứng sừng sững trong làng văn học Việt Nam và trong trái tim của toàn thể người con đất Việt. Đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến là hình ảnh sắc nét nhất về chân dung người lính Tây Tiến. Nhờ vào hồn thơ tài hoa và văn pháp lãng mạn của thi sĩ Quang Dũng, sự hy sinh thầm lặng của người lính sẽ mãi vang lừng muôn thuở.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Quang Dũng là hồn thơ phúc hậu, hào hoa thanh lịch, yêu tha thiết quê hương quốc gia, có thiên hướng khai thác vẻ đẹp lãng mạn người hùng. Đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Tây Tiến của ông khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau nhưng người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “Đoàn binh ko mọc tóc”, “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, khía cạnh hình ảnh những “Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian truân được nói tới một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu ko mọc tóc vì sốt rét rừng, thế nhưng quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng ko mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính đấy ko chỉ có trong thơ Quang Dũng nhưng còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.
Gian truân và thảm khốc thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mộng giết mổ giặc, đánh tan lũ xâm lược “xác thù chất đống xây thành chiến công”.
Hai chữ “mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía quân địch với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với quân địch. Nhưng đôi mắt trừng đấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa đấy ta thấy, người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông nhưng còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những trục đường mùa thu thơm phức hoa sữa… hay xác thực hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng vía của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ.
Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất đấu tranh. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “đắt” cái phong thái hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa thi sĩ nói về sự hy sinh tráng liệt của những người hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Tản mạn biên giới mồ viễn xứ…”. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất thần trong đoạn thơ (biên giới, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ truyền, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh, có xót xa tiếc thương, ko bi quan yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những thi sĩ trước nhất của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế.
Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian truân đấu tranh hy sinh vẫn sáng sủa yêu đời. Người hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Hai đoạn thơ trên đây trình bày cốt cách và văn pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.
…/…
Tương tự là Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những gợi ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu nêu Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_2_plain]
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_2_plain]
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
[rule_3_plain]
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến của Quang Dũng, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Xem nhanh nội dung1 Dàn ý cụ thể Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến2 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 13 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 24 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 35 Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Dàn ý cụ thể Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
1. Mở bài
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh lúc ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời kì.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều từng lớp không giống nhau, trong đó có cả học trò, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng văn pháp lãng mạn, thấm đẫm ý thức bi tráng.
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng văn pháp lãng mạn với thiên hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào giác quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một ko khí, sẵn sàng cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), tới đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp lạ mắt và kì lạ:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Quang Dũng đã tuyển lựa những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng nói chung những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến xuất hiện đầy uy phong và dữ dội khác thường. Thực tiễn gian truân thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc.
Quang Dũng ko hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm nhưng ko yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái uy phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ uy phong, lẫm liệt đấy còn được trình bày quan ánh mắt tức giận (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn hình thức của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rộn rực, khát khao yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Tương tự, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến ko chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ hình thức nhưng con trình bày được cả toàn cầu tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:
– Lúc viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng ko gây cảm giác bi quan, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi tráng:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Lúc mô tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng ko hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi quan. Cảm hứng của ông mỗi lúc chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của ý thức lãng mạn. Chính vì vậy nhưng hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ tản mạn nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thực bi thương những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường ko có tới cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của thi sĩ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương đấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được thi sĩ mô tả thật trang trọng. Cái chết đấy đã tạo được sự cảm thương thâm thúy ở tự nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng tống biệt vong hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
– Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những người hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi ko trở lại.
3. Kết bài
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa lạ mắt vừa nhiều chủng loại của ngòi bút Quang Dũng. Thi sĩ đã thông minh được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, mô tả được vẻ đẹp ý thức của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi ko trở lại.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã mô tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện cơ quan sưu tầm hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất lạ mắt của mình.
Các em vừa tham khảo qua dàn ý cụ thể cảm nhận về hình tượng người lính trong đoạn thứ ba bài thơ Tây Tiến. Kỳ vọng với dàn ý cụ thể này em hoàn toàn có thể tự triển khai ý để viết được một bài văn hay. Các em cũng có thể tham khảo qua một số bài văn mẫu của chúng tôi dưới đây:
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 1
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa
Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự liên kết thuần thục giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng đấu tranh và phẩm chất hy sinh quả cảm. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các cụ thể như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức quyến rũ. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ nhấp nhánh dần lên, tới lúc người lính Tây Tiến đương đầu với dịch bệnh, đương đầu với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân đấy thôi nhưng lúc dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “ko mọc tóc” là đảo thế tiêu cực thành chủ động. Ko còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình ko mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các cụ thể “ko mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian truân khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc thù. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc ko mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy đấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi trội vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén phẫn uất tới cao độ như có khả năng thiêu cháy quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi trội ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được nhắc đến tới với tất cả thực trạng mỏi mệt, vất vả qua các từ “ko mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này nhưng chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng lúc bom đạn yên rồi giấc mộng đấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hứa hẹn ước. Một ngày về trong thắng lợi để nối lại giấc mơ xưa, ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ tản mạn trên đường hành quân, nhưng ko thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương quốc gia sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lúc cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh quân nhân cụ Hồ ngày nay đấu tranh hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng ko khí cổ truyền trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian truân ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau lúc hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng chí. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông đấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian truân, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang vu. Câu thơ có cái ko khí chiến trường của bản người hùng ca thời cổ. Câu thơ nhắc đến tới mất mát đau thương nhưng vẫn hùng tráng.
Bốn cấu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông đấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Người nào lên Tây Tiến mùa xuân đấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời khắc thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của quốc gia, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tự nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng tới cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (ý thức của các anh) vẫn đồng hành với đồng chí, vẫn sống trong lòng đồng chí: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 2
Trong những sáng tác của Quang Dũng, nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất mực Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng ko thể quên được hình ảnh đoàn quân đấy:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói tới gian truân, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân đấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rành mạch. Đã thành khuôn sáo lúc nhắc đến tới sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần truồng: chiến sĩ Tây Tiến hồi đấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít nhưng chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ nhưng chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, lạ mắt, không tiền khoáng hậu trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian truân là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn ko nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên giới, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết mổ giặc lập công, và Hà Nội, quê hương dấu yêu – mơ những bóng vía thân yêu. “Dáng kiều thơm”, đấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ đấy là sự thăng bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ ko phải để thối chí nản lòng. Vậy nhưng một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã làm cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Kim cổ chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trường, mấy người nào trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng ko khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, xinh tươi, tới đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn thực chất của sự việc. Hình như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian truân của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt thản nhiên, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người người hùng da ngựa bọc thây nhưng họ tiếp thu được trong văn học sách vở. Một niềm say mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ mô tả, thông báo phổ biến nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi nhưng cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể thờ ơ trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ vinh quang của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của nòi giống.
Trước đây, lúc nhắc tới những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những bộc lộ nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời kì đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào thực chất, có thời đại đấy mới có văn học đấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; kế bên cái bi là cái hùng, kế bên mất mát, đau thương là niềm tự hào người hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 3
Tây Tiến là bài thơ xuất sắc viết về những người người hùng dân tộc – những người lính đã hy sinh trong cuộc kháng hào chiến đấu hùng của quốc gia. Thi sĩ Quang Dũng viết nên bài thơ Tây Tiến với một vẻ đẹp bi tráng nhưng cũng ko kém phần hào hùng lãng mạn. Nét bi tráng đấy được trình bày rõ nhất trong đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ đã khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đọc đoạn thơ, quang cảnh chiến trường nơi Tây Bắc núi non hùng vĩ như xuất hiện ngay trước mắt người đọc. Ở hai câu thơ trước nhất của đoạn thơ, thi sĩ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hiện thực về môi trường khốc liệt nhưng những người lính lúc xưa phải đương đầu. Đó là bệnh tật hoành hành. Nơi rừng thiêng nước độc, núi cao vách đứng trùng trùng như rình rập đòi mạng người, điều kiện sống của những người lính rất khắc nghiệt. Một trong những căn bệnh đáng sợ nhất đó là bệnh sốt rét. Sốt rét làm người lính “ko mọc tóc”. Cách nói giảm nói tránh thật hí hước, cho ta thấy ý thức sáng sủa rất mực của người lính dù trong hoàn cảnh khó khăn. Bệnh sốt rét cũng làm nước da người lính trở thành xanh xao, như hòa mình vào màu xanh của cành lá cây ngụy trang trên mũ, ba lô và vai áo. Bệnh tật dày vò là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn giữ một ý thức đấu tranh quật cường. Họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Những gương mặt “dữ oai hùm” nổi trội lên trong màu xanh lá là hình ảnh để lại cho người đọc một khắc ưu tư về dấu ấn đau thương trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Gian truân và thảm khốc thế, những người lính vẫn mộng mơ đúng như chất lãng mạn của những người thanh niên trẻ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là giấc mộng dệt nên từ ý chí giết mổ giặc đuổi thù, mang lại bình yên độc lập cho dân tộc. Họ dùng đôi mắt trừng trừng của mình để mở to quả cảm đấu tranh với quân địch, với ý chí mạnh mẽ thề sống chết với lũ xâm lược. Cũng chính đôi mắt trừng đấy là ánh nhìn đăm đăm về nơi quê nhà, là đôi mắt có tình, thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của quốc gia nhưng còn rất hào hoa và giàu tình cảm trong cuộc sống. Giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn, giữa hoàn cảnh tính mệnh bị dọa nạt, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội. Những thanh niên vì bảo vệ tổ quốc nhưng ra đi ngày ngày vẫn nhớ về quê hương xưa cũ. Phải chăng đó là ngôi nhà con phố, những trục đường hoa sữa thu thơm phức hay bóng vía kiều diễm thướt tha của người con gái Hà Nội?
Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nét bi tráng của người lính Tây Tiến trình bày thật rõ nét qua những câu thơ trên. Họ ra đi, cầm súng bảo vệ quốc gia, và họ ngã xuống hy sinh tráng liệt. Sự hy sinh của những người hùng vô danh đấy làm cho ta cảm thấy thật xót thương và kính phục biết bao. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, vừa ngang tàn nhưng cũng vừa cao đẹp. Nơi núi rừng Tây Bắc hoang vu hẻo lánh đấy có bao “mồ viễn xứ” nằm “tản mạn” của những chiến sĩ đã ngã xuống. Chỉ có “áo bào thay chiếu” che thể xác các anh nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn của họ và sự hy sinh bình dị nhưng cao cả đấy. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất Mẹ trên vùng đất quê hương, bình yên một giấc ngủ nghìn thu.
Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như lời khóc thương bi tráng, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, và cao cả. Người lính Tây Tiến ra đi, cả non sông đất trời đều tiếc thương. Thật lớn lao và thiêng liêng biết bao! Những vần thơ hay và cảm động qua ngòi bút thi sĩ Quang Dũng đã chạm tới trái tim người đọc. Ta cảm phục con người những chiến sĩ và ý thức đấu tranh của các anh. Ta tự hào và hàm ân những người lính của thế hệ đi trước và đau thương cho sự hy sinh thầm lặng nhưng cao cả đấy. Có thể nói, bài thơ Tây Tiến đã giúp bao người con Việt Nam dấy lên lòng yêu nước và lòng hàm ân về những thế hệ người lính cụ Hồ.
Bài thơ Tây Tiến đã khắc tạc một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những người lính Tây Tiến dũng cảm can trường, sẵn sàng đấu tranh và hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Tượng đài đấy mãi mãi đứng sừng sững trong làng văn học Việt Nam và trong trái tim của toàn thể người con đất Việt. Đoạn thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến là hình ảnh sắc nét nhất về chân dung người lính Tây Tiến. Nhờ vào hồn thơ tài hoa và văn pháp lãng mạn của thi sĩ Quang Dũng, sự hy sinh thầm lặng của người lính sẽ mãi vang lừng muôn thuở.
Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến – Bài mẫu 4
Quang Dũng là hồn thơ phúc hậu, hào hoa thanh lịch, yêu tha thiết quê hương quốc gia, có thiên hướng khai thác vẻ đẹp lãng mạn người hùng. Đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Tây Tiến của ông khắc họa hình tượng tập thể người hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
………
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau nhưng người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “Đoàn binh ko mọc tóc”, “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, khía cạnh hình ảnh những “Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian truân được nói tới một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu ko mọc tóc vì sốt rét rừng, thế nhưng quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng ko mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính đấy ko chỉ có trong thơ Quang Dũng nhưng còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.
Gian truân và thảm khốc thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mộng giết mổ giặc, đánh tan lũ xâm lược “xác thù chất đống xây thành chiến công”.
Hai chữ “mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía quân địch với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với quân địch. Nhưng đôi mắt trừng đấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa đấy ta thấy, người lính Tây Tiến ko chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông nhưng còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian truân, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những trục đường mùa thu thơm phức hoa sữa… hay xác thực hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng vía của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ.
Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất đấu tranh. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “đắt” cái phong thái hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa thi sĩ nói về sự hy sinh tráng liệt của những người hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Tản mạn biên giới mồ viễn xứ…”. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời kiếp kiếp ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” đấy đã tạo nên ko khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:
“Tản mạn biên giới mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các từ Hán Việt xuất hiện bất thần trong đoạn thơ (biên giới, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ truyền, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh, có xót xa tiếc thương, ko bi quan yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những thi sĩ trước nhất của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế.
Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian truân đấu tranh hy sinh vẫn sáng sủa yêu đời. Người hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến. Hai đoạn thơ trên đây trình bày cốt cách và văn pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng.
…/…
Tương tự là Trường THPT Trần Hưng Đạo đã vừa hỗ trợ những gợi ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu nêu Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận Hình tượng người lính trong đoạn thơ thứ ba của bài Tây Tiến
(hay nhất) bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Giáo dục
#Cảm #nhận #Hình #tượng #người #lính #trong #đoạn #thơ #thứ #của #bài #Tây #Tiến #hay #nhất
Trả lời