Chỉ cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam hơn 25km, thành phố Đông Hưng (Trung Quốc) hiện lên với những dãy nhà cao tầng và trung tâm thương mại sầm uất. Ở đây làng chài Tam Đảo là nơi sinh sống duy nhất của đồng bào Kinh. Và hàng ngày họ vẫn dùng tiếng Việt để giao tiếp, con cái họ được học qua sách giáo khoa bằng tiếng mẹ đẻ.
Theo gia phả, vào thế kỷ 17, một nhóm người Việt từ Đồ Sơn (Hải Phòng) đến Tam Đảo (Trung Quốc) định cư và hành nghề đánh cá. Lúc bấy giờ chữ quốc ngữ chưa ra đời nên toàn bộ sách vở, chữ viết đều bằng chữ Nôm.
Ban đầu vùng đất này có 3 làng: Vân Vi, Mù Dầu và Sơn Tâm, dân số chưa đến 100 người với 12 họ: Tổ, Đô, Nguyên, Hoàng, Vũ, Bùi, Cao, Ngô, La, Cung, Khổng và Lương. Sau này, nhờ phù sa bồi đắp, ba hòn đảo sáp nhập thành đất liền và phát triển thêm một số làng mạc khác. Tuy nhiên, cái tên Tam Đảo vẫn được giữ nguyên. Đồng thời, bộ tộc gốc Việt được công nhận là bộ tộc Kinh cùng với 56 dân tộc khác ở Trung Quốc.
Người Kinh hát quan họ ở Bắc Ninh và nói tiếng Việt ở Trung Quốc. Ảnh: Người lao động.
Sau 500 năm, Tam Đảo hiện nay ước tính có gần 20.000 người gốc Việt thuộc thế hệ thứ 9-10. Dù không còn gắn bó với cội nguồn Việt Nam nhưng họ vẫn giữ được ngôn ngữ mẹ đẻ thông qua việc sử dụng hàng ngày và những giá trị văn hóa từ thời cha ông.
Chẳng hạn, từ ngày 20 đến 30 tháng Chạp, con cháu sẽ đến thăm mộ ông bà, cha mẹ. Vào ngày 30 Tết, người Kinh ở đây cũng sẽ giết lợn, gà, vịt đủ dùng cho cả ngày mùng 1 Tết để tránh giết hại động vật và gặp nhiều may mắn đầu năm. Giống như tổ tiên, người Việt ở Tam Đảo vẫn có thói quen cúng cơm vào dịp Tết.
Ngày mồng 2 Tết, người con gái lấy chồng phải về nhà chúc bố mẹ năm mới vui vẻ và phải mang theo thịt gà, bánh chưng, hoa quả. Sau đó, ông bà sẽ làm lễ mừng trưởng thành cho con cháu. Các gia đình ở Tam Đảo có số ngày đón Tết khác nhau. Đối với gia đình họ Tô, việc đón Tết sau 3 ngày là vàng son.
Đồng thời, để tưởng nhớ công ơn thần linh che chở cho người Kinh, người Tam Đảo vẫn lưu giữ tục lệ tổ chức đình vào ngày 9 tháng 6 (âm lịch) hàng năm và kéo dài trong một tuần. Cũng với phong tục này, người Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) tổ chức lễ hội vào ngày 1/6 (âm lịch).
Đặc biệt, ngày nay ở làng Sơn Tâm, những đứa trẻ lang thang Hải Phòng vẫn còn lưu giữ lễ hội chọi trâu lâu đời vào ngày 10/8. Cho đến ngày nay, người dân Đồ Sơn ở Quảng Tây vẫn thuộc lòng bài hát:
“Bất kể ai buôn bán,
Ngày 10 tháng 8, trâu đánh trả.
Bất cứ ai giao dịch trong hàng trăm giao dịch,
Ngày 10 tháng 8 chúng tôi về đánh trâu”.
Không chỉ bảo tồn những điều đó, người Việt ở Quảng Tây còn lưu giữ lối hát du dương, trữ tình những bài tình ca đáp trả, tương tự như hát Quan họ ở miền Bắc Việt Nam ngày nay. Loại hình hát này thường được tổ chức vào các ngày Tết, Lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống của người Kinh vẫn được họ bảo tồn và sử dụng thường xuyên như đàn nhị, sáo trúc, trống, cồng chiêng, đàn bầu là những nhạc cụ độc đáo của người Kinh. Người Kinh ở đây còn lưu giữ một kho tàng văn học dân gian phong phú với các ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích…
Bà Tô Tiết, thế hệ thứ 10 của người Kinh ở Trung Quốc, chơi đàn bầu. Ảnh: Người lao động.
Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo vẫn làm nước mắm từ cá biển để chấm, nêm các món ăn như người Việt ở Việt Nam. Một trong những món ăn được họ yêu thích là bánh đa, bún, bún với hương vị đặc trưng của người Việt.
Phụ nữ Việt ở Vân Vi yêu thích áo dài và mặc nó hàng ngày. Đặc biệt, họ mặc áo dài truyền thống Việt Nam với váy dài, quần ống rộng và đội nón lá. Vào những ngày hội làng hay ngày lễ, họ thường mặc áo dài sặc sỡ và hát những bài hát Việt Nam.
Không gian làng Kinh không khác gì vùng quê đồng bằng Bắc Bộ. Vẫn có đình, giếng, cọc tre, ruộng lúa, hoa màu… Rồi còn có những người phụ nữ đội nón lá, cuốc trò chuyện với nhau bằng tiếng Việt.
Ông Lý Hiển, người trông coi Bảo tàng Dân tộc Kinh do tỉnh Quảng Tây quản lý cho biết: “Trước đây những người chúng tôi gặp được gọi là người An Nam và người Việt, nhưng bây giờ họ chính thức được gọi là người Kinh. Đây là một trong những dân tộc thiểu số nhỏ nhất ở Trung Quốc”.
Theo truyền thuyết, xưa có 12 dòng họ tổ tiên người Việt di cư theo luồng cá và chia nhau ra trên 3 hòn đảo lần lượt là Vân Vi, Sơn Tâm và Vũ Đậu. Dần dần, ba hòn đảo được lấp đầy tạo thành bán đảo Tam Đảo ngày nay.
Ông Hiển cho biết, chính quyền địa phương mới cho phép các trường học ở vùng có người Kinh sinh sống đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy. Đây là môn học tự chọn nhưng hầu như trẻ em nào cũng đăng ký học thêm. “Các cháu đã giao tiếp với bố mẹ ở nhà bằng tiếng Việt nên khi thầy dạy các cháu tiếp thu rất nhanh”. – Ông Hiển nói.
Ngoài việc tích cực bảo tồn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc, người Kinh ở Tam Đảo còn là dân tộc thiểu số đi đầu trong phát triển kinh tế và được mệnh danh là “dân tộc thiểu số giàu nhất Trung Quốc”. “.
Thân phận “đại phúng” mở ngân hàng đầu tiên của người Việt: Người Nam Kỳ có nhiều đất nhất Đông Dương, tang lễ 7 ngày 7 đêm hàng ngàn người viếng thăm
Nhớ để nguồn bài viết này: https://nguoiquansat.vn/bi-mat-o-ngoi-lang-duy-nhat-trung-quoc-noi-tieng-viet-hat-quan-ho-an-banh-chung-88191.html
Chuyên mục: Kiến thức chung
Trả lời