Bếp lửa không khói, dưới làn nước trong xanh, những cánh rừng thâm u được bao phủ bởi một lớp huyền phù luôn lơ lửng như tàn tro trước gió…
Qua cửa Lăng Cô
Khi tôi đến, đoàn Viện Nghiên cứu Hải sản trong đề tài “Xây dựng quy trình kỹ thuật nuôi san hô cứng ở vùng biển Việt Nam” do Thạc sĩ Nguyễn Văn Hiệu làm trưởng đoàn đã làm việc được 4 năm. ngày tại khu vực Hải Vân – Sơn Chà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Tiếc thay, từ đó biển động, nước đục, cả đoàn không hoạt động được nên phải nằm bờ suốt 3 ngày liền. Đến ngày thứ ba, được ngư dân báo sóng yên biển lặng, cả đoàn lên đường, lòng tôi vui như mở hội.
Chúng tôi qua cửa Lăng Cô trên chiếc thuyền lớn nhất thị trấn nhưng chỉ dài hơn 10m, đóng bằng gỗ, nhiều thanh gỗ đã mục nát hoặc sứt sẹo, sờn rách theo thời gian. Trên tàu có 4 bộ dụng cụ lặn, 1 máy nén khí, mỗi bình 8 bình khí nén đủ cho một người lặn xuống độ sâu 10 m thở trong khoảng 1,5 giờ, dây chì buộc vào người để lặn, thùng xốp, máy chụp ảnh chống nước, mẫu thử cái túi…
“Bành, bang, bang”. Tiếng máy nổ át cả tiếng người. Nguyễn Quang Dũng – thành viên tập sự, thành viên nhỏ tuổi nhất trong nhóm kéo dây khởi động máy nén khí bơm không khí vào bể, đồng thời chuẩn bị giá thể để ghép san hô bằng các dải lưới inox. Tàu chỉ đợi bãi Cả, mất khoảng 15 phút là đến nơi.
Trong lúc các nhà khoa học dùng búa, đục và rổ nhựa lặn xuống biển để tách hạt lấy san hô cấy ghép, ông Lê Văn Thọ – chủ chiếc ghe lớn nhất ở thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế kể. tôi về những sự kiện lớn trong cuộc sống của người dân của mình. Từ năm 1982-1992, phương tiện đánh bắt lạc hậu cộng với lỗi cơ chế đã gây ra nạn đói nên nhiều người phải bỏ xứ vượt biên với giá 1-2 lượng vàng mỗi lượt. Họ chen chúc nhau trên những chiếc thuyền thúng nhỏ như chiếc lá, phó mặc mạng sống cho Chúa. 10 người đi thì 7-8 người bỏ xác giữa biển khơi.
Rồi vụ ô nhiễm nhà máy thép Formosa năm 2016, cá chết nổi trắng như phao xốp, có con dài bằng cây sào, đẩy mùi hôi thối ra xa hàng trăm mét. Khi đó, vợ chồng ông Thọ phải gác thuyền tạm dừng ra biển, lên đèo Hải Vân đóng vài chiếc sào đủ che bạt, bán nước nuôi năm người con. Quản lý giao thông đuổi anh ta ra, anh ta van xin một hai lần để anh ta làm việc đó nếu không cả nhà sẽ chết đói. Hơn một năm sau, cá lẻ tẻ xuất hiện, họ lại dong buồm ra khơi.
Còn theo ông Thọ, Formosa chỉ là giọt nước tràn ly, còn trước đó biển đã khô cạn: “Mười năm trước, khi lặn xuống biển ở bãi Cả, tôi thấy san hô mọc dày, cao như rừng. .chúng cứ chết dần, từ xanh nhạt chuyển sang trắng, cuối cùng chuyển sang màu nâu và tan chảy hoàn toàn.. Các hình thức đánh bắt mang tính hủy diệt như cào cào, xung điện, chất nổ, chất độc xyanua đều ảnh hưởng đến môi trường.
Sau sự cố Formosa, san hô ở đây chỉ còn lại một phần, mười nguồn lợi thủy sản xưa nay không còn hai. Gia đình tôi bốn đời làm nghề biển. Nếu có biển, con cái trong gia đình có thể tiêu xài rộng rãi chứ không khó khăn gì. Tôi phải bán ba ngàn mắt lưới lớn vì không còn cá, chỉ giữ lại một số mắt lưới nhỏ. Khi mua họ có giá hơn 100 triệu đồng, khi bán chỉ 30 triệu đồng. Con trai tôi đang bâng khuâng theo nghề biển vì sau khi xuất ngũ về vẫn chưa tìm được việc làm khác”.
Cách đây vài năm tại khu vực Bãi Chuối, ông Thọ cũng nhiều lần bắt được cá heo khi giăng lưới. Chúng gỡ cá khỏi lưới giỏi hơn người rồi ăn ngấu nghiến: “Cứ mỗi lần đàn cá heo đến là mực, tôm, cá sạch sẽ một phần vì anh ăn chúng, một phần vì chúng ngửi thấy hơi thở của anh. tôm, cá, mực sợ bỏ chạy, phải nói các anh bơi đi để tôi kéo cái lưới này rồi thi đua.
Nghe vậy, bạn chẳng còn thấy đâu nữa. Sau khi kéo lưới, nổ máy thì thấy các anh xuất hiện. Lúc đầu chúng khỏe bơi trước mũi thuyền, sau 10-15 phút bơi ngang thuyền, cuối cùng mệt mỏi phải bơi sau thuyền, liên tục nổi đầu lên để hít thở không khí. Sức đâu để chạy đua với máy?
Cũng ở khu vực này, có lần soi đèn tôi cũng thấy một con cá voi dài bằng thuyền của mình, tức là 13,5m, nặng khoảng 15-20 tấn nên vội kéo lưới, nổ máy bỏ chạy. . Chạy một hồi lâu, tưởng nó không đuổi theo mình nữa, tôi tắt máy, lại thấy nó bồng bềnh bên mạn thuyền. Nhưng hai năm trở lại đây, khu vực này không hề thấy cá heo hay cá voi. Biển thực sự rất khô.”
Là người con của biển, anh Thọ rắn như tượng đồng. Tấm lưng ông hứng nắng, cháy sém đến nỗi lặn xong đen thui như tấm bảng đen, thấm mồ hôi và muối đọng lại để viết chữ. Bắt tôm hùm con, phóng lao cá, mực nang lúc đầu anh “ăn chay” luôn, nghĩa là không dùng ống dẫn khí, khi cảm thấy phổi hết dưỡng khí, anh nuốt một ít nước biển để lấy một ít. nhiều hơi thở hơn để nổi. đi lên.
Sau này, không có vũ khí, chỉ bịt miệng vào vòi dẫn khí từ máy nổ đặt trên tàu, nhưng ông lặn lội suốt ngày để săn tôm cá. Có những lúc mệt quá, anh còn nằm vật xuống đáy biển. Người trên thuyền thấy bọt khí không còn động đậy, liền biết người thợ lặn lại ngủ quên dưới nước…
Nước sống và nước chết
Ông Thọ đã nhiều lần lặn dưới bãi Cả mới nghiệm ra một điều rằng lượng san hô dưới rạn trước chục phần trăm thì bây giờ không đủ. Tại Bãi Cả, sau khi giá thể nuôi san hô được cố định dưới đáy biển, các nhà khoa học đã tiến hành khai thác tại chỗ một phần nhỏ san hô phiến, khối, đĩa để thử độ ổn định của giá thể với các loại san hô khác nhau. dạng sống san hô, chia nhỏ ra và ghép giống như cắt cành, chặt cây trên bờ.
Thông thường, san hô mọc theo kiểu mọc lan hoặc bị sóng đánh gãy cũng là một dạng gieo hạt nhưng chúng khó bám đáy biển nên thường bị chết. Tại đây, người dân đã hỗ trợ họ những thanh đỡ để giúp họ cố định xác dưới đáy biển.
Trên thuyền, anh em hối hả múc nước biển đổ vào các thùng xốp để sẵn sàng chờ san hô. “Vắt tí, giũ từng khăn giấy là nước sống ra nhiều. Nước biển lúc nào cũng chảy, múc lên là chết”, ông Thọ nói.
Không giống như ở nước ngọt, động vật nước mặn rời biển mẹ sẽ nhanh chóng chết, ngay cả khi chúng được thả trong nước mặn. Vì vậy cần phải thay nước liên tục hoặc tạo dòng chảy hoặc sục oxy. San hô khi đem lên gặp ánh nắng mặt trời cũng sẽ chết ngay do bị loại tảo cộng sinh ra ngoài nên phải đưa san hô vào nơi râm mát.
Kết quả nghiên cứu và tổng hợp của Viện Nghiên cứu Hải sản cho thấy, tổng diện tích rạn san hô ở vùng biển ven bờ Việt Nam ước tính khoảng 13.426 ha. Trong đó, các khu vực có diện tích rạn san hô lớn nhất gồm đảo Phú Quý (1.858 ha), Lý Sơn (1.704 ha), vịnh Vân Phong (1.618 ha) và vùng biển Ninh Hải – Ninh Thuận (2.330 ha). .
Ngoài ra còn có các điểm phân bố nhỏ hơn như Hòn Mát, Nghi Sơn, Hòn La, Đảo Trần, Ba Mùn, Cát Bà, Kỳ Lợi – Vũng Áng ở Vịnh Bắc Bộ, các điểm Hòn Cau, Tuy An, Ghềnh Ráng – Nhổn Hải thuộc vùng biển miền Trung và đảo Hải Tặc thuộc vùng biển Tây Nam.
Các nghiên cứu từ năm 1982-2004 đã xác định được hơn 400 loài thuộc 79 loài san hô cứng ở vùng biển Việt Nam. Kết quả thống kê lúc bấy giờ cho thấy mức độ phong phú tương đối về thành phần loài của các vùng biển phía Nam với số lượng nhiều hơn phía Bắc và gần tương đương với các vùng giàu san hô trên thế giới.
Độ phủ cứng của san hô được tổ chức giám sát san hô toàn cầu (Reefcheck) định nghĩa là một chỉ số về sức khỏe của rạn san hô. Sự thay đổi về phạm vi bao phủ thường liên quan đến các vấn đề khai thác quá mức, bom mìn và chất độc.
Nghiên cứu của Bucke năm 2002 tại gần 200 điểm rạn san hô ven biển Việt Nam cho thấy độ che phủ hiện nay là không tốt. Chỉ có khoảng 1% số rạn có độ che phủ cao, còn số rạn có độ che phủ thấp chiếm trên 31%. Số rạn có độ che phủ trung bình và khá chỉ đạt hơn 41% và 26%. Dữ liệu thống kê cũng cho thấy các rạn san hô xa bờ hoặc xa khu dân cư vẫn ở trong tình trạng tốt hơn so với gần bờ.
Nhớ để nguồn bài viết này:
[Bài 1]: Biển cạn trong ký ức của một ngư dân của website thpttranhungdao.edu.vn
Chuyên mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Bài #Biển #cạn #trong #ký #ức #của #một #ngư #dân
Trả lời