Ngày 7/5/1954, một chiến sĩ quê gốc Thái Bình đã đột nhập vào sào huyệt địch, bắt sống tướng Đờ-xtơ-ri (De Castries), trở thành dấu mốc quan trọng trong chiến thắng Điện Biên Phủ.
1. Ai là tổng chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ?
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua kế hoạch tác chiến, giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy quyết định tập trung 4 tiểu đoàn bộ binh và 1 đại đội pháo binh với tổng quân số trên 40.000 người. Cả nước dồn sức cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các bộ đội chủ lực đã nhanh chóng tập trung, ngày đêm băng rừng, xẻ núi mở đường. kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng đánh địch. 261.451 công dân, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn tiến về Điện Biên bảo đảm hậu cần cho chiến dịch.
2. Phương châm tác chiến của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ là gì?
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội ta vào tư thế tập kết, sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch hạ quyết tâm: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chuyển phương châm tác chiến sang “đánh mạnh”. , bảo đảm.”
Với địa hình hiểm trở, pháo binh ta đã tập trung tại trận địa, nay phải phân tán pháo binh ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực xạ. tiếp tục tiến vào các mục tiêu bên dưới lòng chảo. Với tinh thần dũng cảm, không ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm mấy đợt?
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong 3 giai đoạn:
Đợt 1: Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 1954, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, buộc phòng tuyến Bản Kéo, chọc thủng cửa ngõ phía Bắc của cụm cứ điểm Điện Biên Phủ; tiêu diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Đại tá Pirot, chỉ huy pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta và dùng lựu đạn tự sát.
Đợt 2: Từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía đông phân khu trung tâm, siết chặt thế bao vây, chia cắt và liên tục tấn công, làm chủ sân bay Mường. Thành, hạn chế viện binh địch đến cụm cứ điểm. Địch rất ngoan cố và muốn câu giờ. Tướng Na – và tôi hy vọng rằng trong mùa mưa, chúng tôi sẽ phải phá vòng vây. Đây là cuộc tiến công dai dẳng nhất, lâu dài nhất, ác liệt nhất, khó khăn nhất, ta và địch đánh nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, ở đồi C1, ta và địch giằng co 20 ngày, đồi A1 giằng co 30 ngày. Sau đợt tiến công thứ hai, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã lọt vào tầm bắn của súng ta, địch rơi vào thế bị động, tinh thần lên cao.
Đợt 3: Từ ngày 1-5 đến ngày 7-5-1954, quân ta chiếm các cứ điểm phía Đông và mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm 6-5-1954, tại đồi A1, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ác liệt, quân ta xông lên phá đồn bót và dùng thuốc nổ phá ngầm. Chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, khi ta chiếm được sở chỉ huy của địch, tướng De Castri cùng toàn bộ Bộ Tổng tham mưu và các chiến sĩ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải đầu hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay phấp phới trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay đêm hôm đó, quân ta tiếp tục tấn công phân khu Nam Bộ, đánh địch tháo chạy sang Thượng Lào. Đến 24 giờ toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.
4. Chiến sĩ nào đã dũng cảm lấy thân mình lấp hố trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Phan Đình Giót sinh năm 1922, người huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Mùa đông năm 1953, ông cùng đơn vị nhận lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiêu diệt cứ điểm đồi Him Lam. Cả trận địa rung chuyển hoang mang sau nhiều loạt pháo kích. Các chiến sĩ Đại đội 58 xông lên mở đường, đánh liên tiếp quả nổ thứ tám. Phan Đình Giót trúng quả thứ chín bị thương ở đùi nhưng vẫn xung phong đánh quả tiếp theo. Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa ta, đồng chí ta bị thương rất nhiều. Phan Đình Giót chồm lên đánh thêm hai phát nữa phá được hàng rào cuối cùng, mở đường cho đồng đội đánh sập lô cốt đầu cầu. Anh bị thương ở vai và đùi, máu chảy đầm đìa.
Khi quân địch nã ồ ạt vào quân ta, Phan Đình Giót lấy hết sức giơ khẩu tiểu liên bắn mạnh vào lỗ miệng và hô to: “Quyết tử vì Đảng, vì dân hy sinh”, rồi nhoài người tiến lên. để lấy đà đầy đủ. Ngực tuổi trẻ vào lỗ bịt sừng quân thù. Hỏa điểm mạnh nhất của quân Pháp bị dập tắt, cả đơn vị xông lên như vũ bão, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phan Đình Giót hy sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954, hưởng thọ 34 tuổi.
5. Ai đã bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Tạ Quốc Luật sinh năm 1925, quê ở Thái Bình. Ông tham gia phong trào thanh niên phản đế ở địa phương và gia nhập quân đội cả nước sau Cách mạng Tháng Tám thành công.
Năm 1947, ông là Trung đội trưởng Tiểu đoàn 151, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh Bắc Cạn, Yên Bái, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tạ Quốc Luật đã chỉ huy đại đội lập được nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có chiến công bắt sống tướng De Casttri và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều 24/7. Tháng 5 năm 1954.
Trong hồi ký về những ngày tháng lịch sử, Tạ Quốc Luật viết: “Khi qua cầu Mường Thanh, chúng tôi gặp một tên lính ngụy. Tôi hỏi anh chàng này: Hầm mộ ở đâu? Anh vẫn chưa hết run và chỉ vào căn hầm có nhiều cột ăng ten nhỏ trên mái. Tôi lập tức chỉ huy tổ của mình tiếp cận khu vực địa đạo và giao cho đồng chí Nhỏ dùng một quả pháo ném vào cửa hầm để uy hiếp.
Số sĩ quan Bộ Tổng tham mưu tập đoàn cứ điểm tỏ ra rất mệt mỏi và lo âu. Nhưng de Castriere vẫn đội chiếc mũ vải hoa và ngồi gục mặt xuống bàn. Khi đến gần, tôi hét lên bằng tiếng Pháp: “Giơ tay lên!”. Sau đó, De Castri cầm điện thoại ra lệnh cho toàn bộ quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ đầu hàng. Lúc đó là 5 giờ 30 chiều ngày 7-5-1954.
Trong hồi ký Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng xác nhận Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật đã bắt được tướng De Castri.
6. Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài bao nhiêu ngày đêm?
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô. và tất cả vũ khí, khí tài, quân dụng của địch.
7. Sau khi bị bắt, ai là người được giao thẩm vấn tướng De Castri?
Trong cuốn Một số ký ức về Điện Biên Phủ viết, Trung tướng Hoàng Cầm – trong chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, đã kể lại câu chuyện lịch sử vào chiều 7-5-1954.
Theo đó, ngay khi bị bắt sống, tướng De Castries đã được quân ta áp giải về trụ sở trung đoàn. Đồng chí Trần Quân Lập, Chính ủy Trung đoàn hỏi anh bằng tiếng Pháp: – Đơn vị anh ở Hồng Cúm đã có hàng chưa? – Tôi đã mất liên lạc với Hồng Cúm – Bạn đã báo cáo ra Hà Nội như thế nào? – Tôi đã báo cáo với tướng Cogni rằng Điện Biên đã thất thủ, trong sự tuyệt vọng hoàn toàn. – Trước đây anh có viết truyền đơn thách thức chúng tôi không? – Mong anh hiểu, Hà Nội làm chứ không phải tôi.
8. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động thế giới, Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và kí hiệp định với ta?
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, là trận quyết chiến chiến lược, lừng lẫy năm châu, trực tiếp dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. ngày (8-5-1954) về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; tạo cơ sở, điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành những thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này.
Sau Hội nghị Giơnevơ, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. .
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ?” state=”close”]
Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ?
Hình Ảnh về: Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ?
Video về: Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ?
Wiki về Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ?
Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ? -
Ngày 7/5/1954, một chiến sĩ quê gốc Thái Bình đã đột nhập vào sào huyệt địch, bắt sống tướng Đờ-xtơ-ri (De Castries), trở thành dấu mốc quan trọng trong chiến thắng Điện Biên Phủ.
1. Ai là tổng chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ?
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua kế hoạch tác chiến, giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy quyết định tập trung 4 tiểu đoàn bộ binh và 1 đại đội pháo binh với tổng quân số trên 40.000 người. Cả nước dồn sức cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các bộ đội chủ lực đã nhanh chóng tập trung, ngày đêm băng rừng, xẻ núi mở đường. kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng đánh địch. 261.451 công dân, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn tiến về Điện Biên bảo đảm hậu cần cho chiến dịch.
2. Phương châm tác chiến của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ là gì?
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội ta vào tư thế tập kết, sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch hạ quyết tâm: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chuyển phương châm tác chiến sang “đánh mạnh”. , bảo đảm."
Với địa hình hiểm trở, pháo binh ta đã tập trung tại trận địa, nay phải phân tán pháo binh ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực xạ. tiếp tục tiến vào các mục tiêu bên dưới lòng chảo. Với tinh thần dũng cảm, không ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm mấy đợt?
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong 3 giai đoạn:
Đợt 1: Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 1954, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, buộc phòng tuyến Bản Kéo, chọc thủng cửa ngõ phía Bắc của cụm cứ điểm Điện Biên Phủ; tiêu diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Đại tá Pirot, chỉ huy pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta và dùng lựu đạn tự sát.
Đợt 2: Từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía đông phân khu trung tâm, siết chặt thế bao vây, chia cắt và liên tục tấn công, làm chủ sân bay Mường. Thành, hạn chế viện binh địch đến cụm cứ điểm. Địch rất ngoan cố và muốn câu giờ. Tướng Na - và tôi hy vọng rằng trong mùa mưa, chúng tôi sẽ phải phá vòng vây. Đây là cuộc tiến công dai dẳng nhất, lâu dài nhất, ác liệt nhất, khó khăn nhất, ta và địch đánh nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, ở đồi C1, ta và địch giằng co 20 ngày, đồi A1 giằng co 30 ngày. Sau đợt tiến công thứ hai, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã lọt vào tầm bắn của súng ta, địch rơi vào thế bị động, tinh thần lên cao.
Đợt 3: Từ ngày 1-5 đến ngày 7-5-1954, quân ta chiếm các cứ điểm phía Đông và mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm 6-5-1954, tại đồi A1, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ác liệt, quân ta xông lên phá đồn bót và dùng thuốc nổ phá ngầm. Chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, khi ta chiếm được sở chỉ huy của địch, tướng De Castri cùng toàn bộ Bộ Tổng tham mưu và các chiến sĩ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải đầu hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay phấp phới trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay đêm hôm đó, quân ta tiếp tục tấn công phân khu Nam Bộ, đánh địch tháo chạy sang Thượng Lào. Đến 24 giờ toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.
4. Chiến sĩ nào đã dũng cảm lấy thân mình lấp hố trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Phan Đình Giót sinh năm 1922, người huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Mùa đông năm 1953, ông cùng đơn vị nhận lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiêu diệt cứ điểm đồi Him Lam. Cả trận địa rung chuyển hoang mang sau nhiều loạt pháo kích. Các chiến sĩ Đại đội 58 xông lên mở đường, đánh liên tiếp quả nổ thứ tám. Phan Đình Giót trúng quả thứ chín bị thương ở đùi nhưng vẫn xung phong đánh quả tiếp theo. Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa ta, đồng chí ta bị thương rất nhiều. Phan Đình Giót chồm lên đánh thêm hai phát nữa phá được hàng rào cuối cùng, mở đường cho đồng đội đánh sập lô cốt đầu cầu. Anh bị thương ở vai và đùi, máu chảy đầm đìa.
Khi quân địch nã ồ ạt vào quân ta, Phan Đình Giót lấy hết sức giơ khẩu tiểu liên bắn mạnh vào lỗ miệng và hô to: “Quyết tử vì Đảng, vì dân hy sinh”, rồi nhoài người tiến lên. để lấy đà đầy đủ. Ngực tuổi trẻ vào lỗ bịt sừng quân thù. Hỏa điểm mạnh nhất của quân Pháp bị dập tắt, cả đơn vị xông lên như vũ bão, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phan Đình Giót hy sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954, hưởng thọ 34 tuổi.
5. Ai đã bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Tạ Quốc Luật sinh năm 1925, quê ở Thái Bình. Ông tham gia phong trào thanh niên phản đế ở địa phương và gia nhập quân đội cả nước sau Cách mạng Tháng Tám thành công.
Năm 1947, ông là Trung đội trưởng Tiểu đoàn 151, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh Bắc Cạn, Yên Bái, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tạ Quốc Luật đã chỉ huy đại đội lập được nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có chiến công bắt sống tướng De Casttri và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều 24/7. Tháng 5 năm 1954.
Trong hồi ký về những ngày tháng lịch sử, Tạ Quốc Luật viết: “Khi qua cầu Mường Thanh, chúng tôi gặp một tên lính ngụy. Tôi hỏi anh chàng này: Hầm mộ ở đâu? Anh vẫn chưa hết run và chỉ vào căn hầm có nhiều cột ăng ten nhỏ trên mái. Tôi lập tức chỉ huy tổ của mình tiếp cận khu vực địa đạo và giao cho đồng chí Nhỏ dùng một quả pháo ném vào cửa hầm để uy hiếp.
Số sĩ quan Bộ Tổng tham mưu tập đoàn cứ điểm tỏ ra rất mệt mỏi và lo âu. Nhưng de Castriere vẫn đội chiếc mũ vải hoa và ngồi gục mặt xuống bàn. Khi đến gần, tôi hét lên bằng tiếng Pháp: “Giơ tay lên!”. Sau đó, De Castri cầm điện thoại ra lệnh cho toàn bộ quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ đầu hàng. Lúc đó là 5 giờ 30 chiều ngày 7-5-1954.
Trong hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng xác nhận Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật đã bắt được tướng De Castri.
6. Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài bao nhiêu ngày đêm?
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô. và tất cả vũ khí, khí tài, quân dụng của địch.
7. Sau khi bị bắt, ai là người được giao thẩm vấn tướng De Castri?
Trong cuốn Một số ký ức về Điện Biên Phủ viết, Trung tướng Hoàng Cầm - trong chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, đã kể lại câu chuyện lịch sử vào chiều 7-5-1954.
Theo đó, ngay khi bị bắt sống, tướng De Castries đã được quân ta áp giải về trụ sở trung đoàn. Đồng chí Trần Quân Lập, Chính ủy Trung đoàn hỏi anh bằng tiếng Pháp: – Đơn vị anh ở Hồng Cúm đã có hàng chưa? – Tôi đã mất liên lạc với Hồng Cúm – Bạn đã báo cáo ra Hà Nội như thế nào? – Tôi đã báo cáo với tướng Cogni rằng Điện Biên đã thất thủ, trong sự tuyệt vọng hoàn toàn. – Trước đây anh có viết truyền đơn thách thức chúng tôi không? – Mong anh hiểu, Hà Nội làm chứ không phải tôi.
8. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động thế giới, Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và kí hiệp định với ta?
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, là trận quyết chiến chiến lược, lừng lẫy năm châu, trực tiếp dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. ngày (8-5-1954) về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; tạo cơ sở, điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành những thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này.
Sau Hội nghị Giơnevơ, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. .
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” bm_h bm_J” style=”text-align: justify;”>Ngày 7/5/1954, một chiến sĩ quê gốc Thái Bình đã đột nhập vào sào huyệt địch, bắt sống tướng Đờ-xtơ-ri (De Castries), trở thành dấu mốc quan trọng trong chiến thắng Điện Biên Phủ.
1. Ai là tổng chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ?
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua kế hoạch tác chiến, giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy quyết định tập trung 4 tiểu đoàn bộ binh và 1 đại đội pháo binh với tổng quân số trên 40.000 người. Cả nước dồn sức cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các bộ đội chủ lực đã nhanh chóng tập trung, ngày đêm băng rừng, xẻ núi mở đường. kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng đánh địch. 261.451 công dân, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn tiến về Điện Biên bảo đảm hậu cần cho chiến dịch.
2. Phương châm tác chiến của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ là gì?
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội ta vào tư thế tập kết, sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch hạ quyết tâm: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chuyển phương châm tác chiến sang “đánh mạnh”. , bảo đảm.”
Với địa hình hiểm trở, pháo binh ta đã tập trung tại trận địa, nay phải phân tán pháo binh ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực xạ. tiếp tục tiến vào các mục tiêu bên dưới lòng chảo. Với tinh thần dũng cảm, không ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã vượt qua thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm mấy đợt?
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong 3 giai đoạn:
Đợt 1: Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 1954, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, buộc phòng tuyến Bản Kéo, chọc thủng cửa ngõ phía Bắc của cụm cứ điểm Điện Biên Phủ; tiêu diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Đại tá Pirot, chỉ huy pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta và dùng lựu đạn tự sát.
Đợt 2: Từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía đông phân khu trung tâm, siết chặt thế bao vây, chia cắt và liên tục tấn công, làm chủ sân bay Mường. Thành, hạn chế viện binh địch đến cụm cứ điểm. Địch rất ngoan cố và muốn câu giờ. Tướng Na – và tôi hy vọng rằng trong mùa mưa, chúng tôi sẽ phải phá vòng vây. Đây là cuộc tiến công dai dẳng nhất, lâu dài nhất, ác liệt nhất, khó khăn nhất, ta và địch đánh nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, ở đồi C1, ta và địch giằng co 20 ngày, đồi A1 giằng co 30 ngày. Sau đợt tiến công thứ hai, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã lọt vào tầm bắn của súng ta, địch rơi vào thế bị động, tinh thần lên cao.
Đợt 3: Từ ngày 1-5 đến ngày 7-5-1954, quân ta chiếm các cứ điểm phía Đông và mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm 6-5-1954, tại đồi A1, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ác liệt, quân ta xông lên phá đồn bót và dùng thuốc nổ phá ngầm. Chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, khi ta chiếm được sở chỉ huy của địch, tướng De Castri cùng toàn bộ Bộ Tổng tham mưu và các chiến sĩ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải đầu hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay phấp phới trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay đêm hôm đó, quân ta tiếp tục tấn công phân khu Nam Bộ, đánh địch tháo chạy sang Thượng Lào. Đến 24 giờ toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.
4. Chiến sĩ nào đã dũng cảm lấy thân mình lấp hố trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Phan Đình Giót sinh năm 1922, người huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Mùa đông năm 1953, ông cùng đơn vị nhận lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiêu diệt cứ điểm đồi Him Lam. Cả trận địa rung chuyển hoang mang sau nhiều loạt pháo kích. Các chiến sĩ Đại đội 58 xông lên mở đường, đánh liên tiếp quả nổ thứ tám. Phan Đình Giót trúng quả thứ chín bị thương ở đùi nhưng vẫn xung phong đánh quả tiếp theo. Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa ta, đồng chí ta bị thương rất nhiều. Phan Đình Giót chồm lên đánh thêm hai phát nữa phá được hàng rào cuối cùng, mở đường cho đồng đội đánh sập lô cốt đầu cầu. Anh bị thương ở vai và đùi, máu chảy đầm đìa.
Khi quân địch nã ồ ạt vào quân ta, Phan Đình Giót lấy hết sức giơ khẩu tiểu liên bắn mạnh vào lỗ miệng và hô to: “Quyết tử vì Đảng, vì dân hy sinh”, rồi nhoài người tiến lên. để lấy đà đầy đủ. Ngực tuổi trẻ vào lỗ bịt sừng quân thù. Hỏa điểm mạnh nhất của quân Pháp bị dập tắt, cả đơn vị xông lên như vũ bão, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phan Đình Giót hy sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954, hưởng thọ 34 tuổi.
5. Ai đã bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Tạ Quốc Luật sinh năm 1925, quê ở Thái Bình. Ông tham gia phong trào thanh niên phản đế ở địa phương và gia nhập quân đội cả nước sau Cách mạng Tháng Tám thành công.
Năm 1947, ông là Trung đội trưởng Tiểu đoàn 151, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh Bắc Cạn, Yên Bái, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tạ Quốc Luật đã chỉ huy đại đội lập được nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có chiến công bắt sống tướng De Casttri và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều 24/7. Tháng 5 năm 1954.
Trong hồi ký về những ngày tháng lịch sử, Tạ Quốc Luật viết: “Khi qua cầu Mường Thanh, chúng tôi gặp một tên lính ngụy. Tôi hỏi anh chàng này: Hầm mộ ở đâu? Anh vẫn chưa hết run và chỉ vào căn hầm có nhiều cột ăng ten nhỏ trên mái. Tôi lập tức chỉ huy tổ của mình tiếp cận khu vực địa đạo và giao cho đồng chí Nhỏ dùng một quả pháo ném vào cửa hầm để uy hiếp.
Số sĩ quan Bộ Tổng tham mưu tập đoàn cứ điểm tỏ ra rất mệt mỏi và lo âu. Nhưng de Castriere vẫn đội chiếc mũ vải hoa và ngồi gục mặt xuống bàn. Khi đến gần, tôi hét lên bằng tiếng Pháp: “Giơ tay lên!”. Sau đó, De Castri cầm điện thoại ra lệnh cho toàn bộ quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ đầu hàng. Lúc đó là 5 giờ 30 chiều ngày 7-5-1954.
Trong hồi ký Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng xác nhận Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật đã bắt được tướng De Castri.
6. Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài bao nhiêu ngày đêm?
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô. và tất cả vũ khí, khí tài, quân dụng của địch.
7. Sau khi bị bắt, ai là người được giao thẩm vấn tướng De Castri?
Trong cuốn Một số ký ức về Điện Biên Phủ viết, Trung tướng Hoàng Cầm – trong chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, đã kể lại câu chuyện lịch sử vào chiều 7-5-1954.
Theo đó, ngay khi bị bắt sống, tướng De Castries đã được quân ta áp giải về trụ sở trung đoàn. Đồng chí Trần Quân Lập, Chính ủy Trung đoàn hỏi anh bằng tiếng Pháp: – Đơn vị anh ở Hồng Cúm đã có hàng chưa? – Tôi đã mất liên lạc với Hồng Cúm – Bạn đã báo cáo ra Hà Nội như thế nào? – Tôi đã báo cáo với tướng Cogni rằng Điện Biên đã thất thủ, trong sự tuyệt vọng hoàn toàn. – Trước đây anh có viết truyền đơn thách thức chúng tôi không? – Mong anh hiểu, Hà Nội làm chứ không phải tôi.
8. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động thế giới, Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và kí hiệp định với ta?
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, là trận quyết chiến chiến lược, lừng lẫy năm châu, trực tiếp dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. ngày (8-5-1954) về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; tạo cơ sở, điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành những thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này.
Sau Hội nghị Giơnevơ, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. .
[/box]
#là #người #bắt #sống #tướng #Castries #ở #chiến #dịch #Điện #Biên #Phủ
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ? có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ? bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Địa lý
#là #người #bắt #sống #tướng #Castries #ở #chiến #dịch #Điện #Biên #Phủ
Trả lời