Hà Nội Câu nói thấm thía của chủ nhân lò đậu từng đoạt giải Nhì Hội thi đậu Mơ lần thứ nhất nhằm tôn vinh nghề truyền thống đã tồn tại gần 2.000 năm…
Xấu hổ sau giải thưởng
Gần một năm sau cuộc thi ấy, tôi trở lại Mai Động (quận Hoàng Mai, Hà Nội) vào những ngày nắng 39 – 40 độ C. Lửa trong lò nấu đậu bập bùng, cộng hưởng với cái nắng chói chang ngoài trời. khiến mồ hôi ướt đẫm áo, mồ hôi chảy dài trên mặt, cay xè cả mắt. Nhưng những người làm đậu phụ ở đây, ngoài việc phải chịu nắng nóng quanh năm, còn có một nỗi niềm riêng cay đắng hơn nhiều.
Tương truyền, ông tổ của trại Mai Động là Nguyễn Tam Trinh, một danh tướng của Hai Bà Trưng, quê gốc ở Thanh Hóa, khi đi qua vùng này, thấy hoa mai, hoa mận nở rộ, ông cho rằng là một điềm tốt, vì vậy anh ta ở lại và mở nó ra. lò lửa, luyện binh. Sẵn có hạt đậu tương quê nhà, ông gieo xuống đất và dạy dân làng cách làm đậu phụ. Bí quyết gia truyền cùng mạch nước ngầm trong mát của làng đã làm nên vẻ lấp lánh cho món ăn bình dị nơi đây.
“Đố Mò chấm mắm tôm. Sáng ăn xong, hôm sau lại… thèm. Tại sao bạn có được tôi? Vì yêu Mai Động, vì thèm đậu đỗ.” Ngoài đậu trắng, người Mơ xưa còn làm món đậu hủ nướng than bán cho người đi xem tuồng, hát bội, kéo co. xe tay đi ăn đêm.
Giờ các giếng làng đã bị lấp, không còn nguồn nước ngầm trong lành như xưa, người dân phải bơm nước máy vào xô, chậu để qua đêm, khử clo rồi dùng nấu đậu. Nếu dùng nước mưa thì vỏ đậu bị sền sệt và không thành hình vì dư axit.
Kẻ Mơ xưa nay đã lên phường, nhưng ngôi đình làng vẫn thế, lặng lẽ theo năm tháng, chứng kiến bao thăng trầm của nghề. Hỏi về đậu phụ, người làng liền chỉ tôi đến lò của bà Nguyễn Thị Hồng, sản phẩm ngon nổi tiếng, năm ngoái đạt giải nhì trong hội thi đậu phụ Mơ lần thứ nhất. Bà năm nay đã 88 tuổi, hàng ngày vẫn cùng hai cô con gái là Vũ Thị Minh và Vũ Thị Thủy ra lò.
Hỏi vì sao không có lớp thanh niên tham gia, chị Thủy tiếc nuối: “Ra trường thì làm nghề gì, chứ làm nghề này thì chết à? Làm đậu phụ chỉ hợp với người lớn tuổi thôi, ai mà chả được”. ra ngoài đường, vào chợ nữa, nhưng có sức khỏe ra ngoài đường nhặt rác vẫn tốt hơn, vất vả, công việc thấp, thức trắng đêm nên không mấy ai muốn làm. “
Nhà chị Hồng vẫn giữ nét truyền thống là nấu bằng than vì nước sôi mới ngon chứ không như nấu bằng nồi hầm mà đậu bị ép vì thiếu nhiệt. Việc xay, lọc giờ đã có máy thay sức người, còn các công đoạn khác đều phải làm thủ công. Ba mẹ con phải dậy từ 2-3 giờ sáng rồi làm việc liên tục đến 12h trưa không nghỉ.
Để sơ chế, đậu phải được rửa sạch trước 4 tiếng nếu là mùa hè, 6 tiếng nếu là mùa đông. 2 – 3 giờ sáng dậy, rửa sạch đậu, xay, lọc hai lần, đun sôi rồi trộn với nước chua cho kết tủa thành bánh gọi là “óc đậu”. Từng muôi “óc đậu” còn nóng hổi được múc vào một mảnh vải, đặt lên khuôn gỗ để ép, khi nguội thì lột “lớp áo” vải ra.
Những miếng đậu hũ được gói theo kiểu “vuông cong”, rất khác so với các loại đậu hũ khác. “Đậu phụ truyền thống được đóng gói nhỏ hình chữ nhật, dài khoảng 6 cm, rộng khoảng 4 cm. Loại đậu vuông cũng làng nghề sản xuất nhưng là dạng chưa đóng gói. Tay phải rờ mới biết không quấn được, khó ai học mãi được.
Giống này phải được bọc càng nóng càng tốt, nếu nguội sẽ bị hỏng. Đậu vuông chỉ có mặt úp, nhưng đậu chữ nhật này cũng có mặt. Mỗi bọc đậu buôn lấy 1.500 đồng/bìa, bán lẻ 2.000 đồng/bìa”, chị Thủy giải thích. Vất vả, cầu kỳ là thế nhưng làm từ nửa đêm đến trưa, mỗi người cũng chỉ kiếm được hơn 100.000 đồng. đồng.
Tôi đến xưởng đậu của bà Triệu Thị Lớn, năm nay 90 tuổi, vẫn đỏm dáng cùng hai người con Nguyễn Thanh Hải và Nguyễn Thúy Hồng làm từ mờ sáng đến tối mịt. Dù tuổi đã cao nhưng bà Lớn vẫn rửa, bóc đậu, ít khi chịu để tay được nghỉ ngơi. Mỗi ngày lò tiêu thụ khoảng 20kg đậu thô. Mồ hôi ai cũng đẫm như cày ruộng trưa hè mà lương chỉ khoảng 150.000 – 200.000 đồng/người.
Hỏi về lễ tôn vinh nghề làm đậu phụ Mơ năm ngoái tại đình làng, bà thất thần khi ban giám khảo lại trao giải nhất cho những loại đậu không còn nhiều nét cổ truyền, những lò đậu phụ được dân làng khen nức nở. . Ở nhà tôi, gói hình chữ nhật chỉ đứng ở vị trí thứ ba. Người sành ăn chỉ cần sờ vào vỏ đậu là biết ngay đó có phải đậu Mơ hay không? Sờ vào có cảm giác mịn, mát, ngả sang màu vàng hồng, thơm mùi đậu, bốn góc vuông vức, đặc biệt là miếng đậu hũ rất ngon.
Cả làng bây giờ nhà nào bà Lớn cũng nuôi 10 con lợn, chục con gà vì đất rộng, vườn nhiều loại cây và lũy tre rậm rạp. Chị Hồng cho biết: “Gà nhà tôi nuôi cải thiện, còn lợn thỉnh thoảng mổ thịt bán cho bà con, giá rẻ hơn 10.000 đồng/kg so với lợn ngoài chợ, cũng gọi là có thêm chút thu nhập. Ngày xưa đậu hũ còn bán được, nhưng bây giờ tặng cũng không đắt, đóng gói đàng hoàng chắc người ta sẽ nhận. Bây giờ không ai chịu theo nghề, họ nói già rồi cũng không bao giờ truyền nghề vì thu nhập thấp, lại còn vất vả lắm”.
Thời thế đổi thay, làng quê xưa ruộng ngô đậu đã thành nhà, bãi đậu ngày xưa bạt ngàn đậu nay trồng rau khác nên vụ đậu tương đã trở thành ký ức. Đậu nành ở quê mấy chục năm nay không có người mua, lâu rồi cũng không ai thấy. Người dân làng hiện đang làm đậu phụ 100% từ đậu nành nhập khẩu. Chúng được phơi khô chứ không phơi nắng như đậu ta nên thiếu độ “dẻo”, độ béo và độ ngon.
Ăn với chồng nửa bữa, nửa đêm ngủ với chồng
Hơn 8 giờ sáng, khi tôi đến, vợ chồng bà Trần Thị Tặng vừa dọn dẹp bếp núc xong, tắt lò chuẩn bị đi ngủ, giấc ngủ đã bị cắt từ 12 giờ đêm. Hỏi về cuộc thi tuyển năm ngoái ngoài nhà, chị chua chát nói: “Nghề này khổ lắm, mồ hôi như tắm mà sướng, vinh dự làm gì? Từ sáng đến giờ mỗi đứa phải thay một bộ quần áo vì tất cả chúng tôi đều ướt.
Tôi bắt đầu sự nghiệp từ năm 19 tuổi, khi tôi kết hôn. Làm đậu đúng nghĩa là “ăn với chồng nửa bữa, nửa đêm ngủ với chồng”, mấy chục năm nay vẫn làm. Chồng tôi phải dậy từ 10 đến 11 giờ đêm, còn chúng tôi thức từ 12 giờ đêm để làm đến 7, 8 giờ sáng, may ra mỗi người được 250.000 đồng. Tôi có hai đứa con ở nhà, một trai và một gái. Con gái tôi làm với tôi từ nhỏ, nó vẫn theo nghề nhưng nó bảo, nó không làm nữa thì tôi nhận”.
Gia đình chị Đường có quy mô sản xuất lớn nhất trong nhóm, chế biến 50kg đậu thô cho ra khoảng 1.500 thành phẩm. Chị phàn nàn đậu phụ là thứ rẻ nhất nhưng vẫn bị làm giả, làm nhái thương hiệu: “Bên mình không làm đại trà đâu, chỉ có Mơ làm đậu phụ giả ở các nơi khác thôi, năm ngoái họ bán 2.500-3.000 đồng. Khi bìa Mơ đậu còn nhỏ được bán sỉ với giá 1.500 đồng.
Từ một làng nghề có vài trăm hộ tham gia, đến nay Mai Động chỉ còn khoảng 25 hộ làm đậu phụ. Quy mô nhất là lò đậu của nhà bà Triệu Thị Lĩnh. Nơi đây tập trung 6-7 công nhân, chủ yếu là phụ nữ U60, thậm chí U70. “Bọn em làm nghề này thì chồng bỏ luôn, chồng ghét lắm”. Một người phụ nữ nói, và những người phụ nữ bên cạnh cô ấy cười. Tôi không biết đó là sự mỉa mai hay một phần sự thật, nhưng đó cũng là sự cay đắng của nghề nghiệp.
Những người thợ ở đây phải dậy từ 1 giờ đêm để làm xuyên trưa đến 2 – 3 giờ chiều. Còn cô chủ phải thức từ 11h30 đêm đến 2-3h chiều để không chỉ chăm sóc bản thân mà còn trực tiếp xắn tay vào công việc, mồ hôi nước mắt như ai. Công việc luôn trong tư thế ngồi hoặc khom lưng nên bà Linh đã có những triệu chứng điển hình của người bị thoái hóa khớp, tư thế đi lại đã khom.
Trung bình mỗi ngày, lò của chị chế biến 1,5-2 tạ đậu nành nguyên liệu cho ra vài nghìn chiếc đậu. Sản phẩm làm ra bán ngay cho thương lái chở ra chợ bán với giá 1.500 đồng/bìa, nước đậu chỉ 10.000 đồng/thùng 1,5 lít, thậm chí còn rẻ hơn cả nước lọc đóng chai.
Nhớ để nguồn bài viết này:
Thà nhặt đồng nát vẫn còn hơn nghề làm đậu phụ Mơ của website thpttranhungdao.edu.vn
Chuyên mục: Phong thủy
Đặt mâm cúng tất niên cuối năm 2022 tại đây: cungtatnien.com
#Thà #nhặt #đồng #nát #vẫn #còn #hơn #nghề #làm #đậu #phụ #Mơ
Trả lời