Để hiểu thêm về giá trị của tác phẩm Cố hương, mời các bạn tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích hình ảnh người lính, người quan qua hai câu thực:
“Hạ gục người lính với cái chai trên vai,
Omg, cái miệng của trường đang hét lên”
Hy vọng với những bài văn mẫu đặc sắc dưới đây, các em sẽ có thêm tư liệu và cách thực hiện để hoàn thành bài viết một cách tốt nhất!
Phân tích hình ảnh người lính và người quan – Bài mẫu 1
Tú Xương là nhà thơ gặp nhiều trắc trở trên con đường binh nghiệp. Anh ấy đã thi trượt nhiều lần và bỏ lỡ nhiều cơ hội quý giá. Cũng chính từ kinh nghiệm thi cử của mình, ông đã sáng tác bài thơ Vĩnh khoa thơ để nói về tình hình thi cử lúc bấy giờ, nổi bật với hai câu:
“Hạ gục người lính với cái chai trên vai,
#M862105ScriptRootC1420804 { chiều cao tối thiểu: 300px; }
Hừm, cái miệng của trường hét lên”.
Hình ảnh người lính không mang dáng vẻ của một nhà nho. Thủ pháp đảo ngược luộm thuộm vừa nhấn mạnh sự luộm thuộm, lôi thôi vừa tạo ấn tượng chung về hình ảnh của những thí sinh này. Họ không có tư thế của người đi thi, càng không có tư thế của chủ nhân trong kỳ thi. Hình tượng người lính trong thơ Tú Xương đã phản ánh sự suy tàn của “cây nho thần”, do hoàn cảnh xã hội xô bồ, hỗn loạn mang lại.
Hình ảnh vị quan hiện ra với vẻ uy nghiêm và giận dữ. Cái oai của người làm quan là cái oai do cố tạo ra, cái oai “giả bộ”. Tiếng o o thể hiện tiếng nói lớn nhưng cổ họng của bị cáo trầm thấp, không rõ ràng, thể hiện sự uy nghiêm phi phàm của vị quan. Cùng với cách đảo giọng lớn tiếng của vị quan, có thể thấy được sự huyên náo, lộn xộn của cảnh thi này. Quân phải la lên vì lính không nghe. Lính không nghe nên quan phải cố tỏ ra uy nghiêm, giả vờ giận dữ.
Quang cảnh kỳ thi mất đi sự tôn nghiêm, nghiêm túc vốn có mà trở nên lộn xộn, ồn ào như hội chợ, phần nào đánh giá một xã hội mục nát, thối nát. Tác giả đã gián tiếp phê phán thực trạng xã hội lúc bấy giờ vô cùng sâu sắc và hài hước. Đã nhiều năm trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị tốt đẹp ban đầu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ người đọc.
Phân tích hình ảnh người lính và người quan – Bài văn mẫu 2
Kẻ sĩ xưa nay không “ngả lưng với gió trăng”, “bên trong nho nhã, bên ngoài hào hoa” như Kim của Nguyễn Du, mà cũng “chém đầu đạp đất” “Chí nam tây bắc đông” như Nguyễn Công Trứ. Chính vì vậy tôi thấy rất lạ, rất lạ với những người lính trong bộ dạng này:
“Đả đảo người lính vác chai trên vai”
Học trò cửa Khổng, sân Trình, như phường bán thùng, đầu phố. Tú Xương đã dùng phép đảo ngữ để đặt hai chữ “Chớp nhoáng” lên trước, “Luộm thuộm” là luộm thuộm, không ngay ngắn. Hai chữ ấy gây ấn tượng về một đám quân tử đàng hoàng, ăn mặc luộm thuộm, thật rẻ rúng, cố gắng lắm cũng chỉ chịu được đôi hạt vừng, nói gì đến đội trời đạp đất? Ăn mặc thế mà phong cách cũng lạ: “vai có lọ”. Lọ gì? Lọ mực? (Nói là lính sao lại là chai nước?!) Chữ “mặc” làm cho người lính có vẻ nặng nề và dị hợm, “mặc” nghĩa là đeo cái gì nặng cho khó, bây giờ đeo lọ mực cũng khó. trông vừa buồn cười lại càng luộm thuộm hơn. Lọ mực nhỏ thế mà “đeo” luôn, còn giấy bút thì không hiểu xách, vác, ôm thế nào? Ở đây có thể hiểu một ý sâu xa hơn của nhà thơ: học tập và rèn luyện những lời thánh hiền là một công việc quá sức đối với những con người khờ khạo và khờ khạo như thế. Nhưng đem mực đi đâu để “đội lốt” như vậy?
“Ừm, miệng của trường đang hét lên”
Nhắc đến trường thi là nhắc đến trường thi. Ra là các sĩ tử khác đi thi. Chúng ta biết rằng, thi cử trong xã hội xưa là một việc vô cùng quan trọng, đối với cả nho sĩ, triều đình và quốc gia vì thi cử là để chọn người hiền tài ra giúp nước. Vì vậy, trường thi bao giờ cũng toát lên vẻ trang nghiêm, uy nghiêm. Nhưng trường thi này thì khác, học sinh nhốn nháo, vô tổ chức. Còn cán bộ trường coi thi cũng không khá hơn, “ú ớ”, “loa loa”. Tiếp tục sử dụng phép đảo ngữ, đặt chữ “uô” trước mặt nhà thơ tạo ấn tượng về những vị quan chưa thấy người mà đã thấy tiếng. Không phải danh vọng hay hư danh, mà là danh tiếng của những quan chức “hét loa” (gọi liệt sĩ, thông báo, nhắc nhở,…) không rõ ràng. Chỉ một chữ “uh ooh” thôi cũng đủ bán rẻ địa vị và phẩm cách của một vị quan. Đó là những người “ăn không được, nói không được” thì làm sao điều hành được đất nước? Âm thanh “wow” cũng gợi nhớ đến một người câm đang cố hét lên điều gì đó. Chỉ khác là ở đây quan không la mà là “hét”, “hét”. “Hét lên” để át đi những âm thanh ồn ào, lộn xộn hay “hét lên” để tăng thêm sự hỗn loạn vốn có. Vẻ bề ngoài đó hỗn độn làm sao, không có sự nghiêm túc, chỉnh tề, trang nghiêm cần có của một vị quan.
Hình ảnh quân sĩ lộn xộn, vô tổ chức, quan lại nhốn nháo, ồn ào gợi lên hình ảnh một kỳ thi Hương cuối mùa Nho học, khi chế độ phong kiến đã hết thời, nền phong kiến tàn lụi. giành độc lập dân tộc trước chủ nghĩa thực dân. Hình ảnh ấy có giá trị tố cáo sâu sắc, đồng thời chất chứa một nỗi đau, một tiếng thở dài của Tú Xương.
Phân tích hình ảnh người lính và người quan – Bài văn mẫu số 3
Tú Xương sinh năm 1870, năm 15 tuổi bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều trượt. Khoa Giáp Ngọ 1894, mới đỗ tú tài, năm ấy 24 tuổi và từ đó chính thức đổi tên là Tú Xương. Tú Xương còn vác lều đi thi thêm 4 khóa nữa: khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân kể: “Rồi Tú Xương thi kỳ thi Đinh Dậu sánh đôi với Tú Xương. mang ý nghĩa đặc biệt: nhiều háo hức và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ 1894) ông đã đỗ tú tài nên trong kỳ thi này ông hy vọng sẽ đỗ cử nhân và bước lên đài danh vọng: “Võng đi trước, võng theo sau”.
Nhan đề bài thơ còn có tên khác là “Lễ đặt tên khoa Đinh Dậu”. Bài thơ tả lễ vinh danh của kỳ thi Hương tại trường Nam học năm 1897, qua đó nói lên nỗi tủi hổ nước mất nhà tan và nỗi chua xót của kẻ sĩ đương thời. Xương mất đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương mới chết, đi thi cho đến chết”.
Hai câu thực tả cảnh vào trường và gọi tên bằng hai nét rất riêng. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương đã làm nổi bật tinh thần của cảnh trường thi như vậy. Dáng người lính “vai đeo chai” trông thật luộm thuộm, “lông bông”. Các sĩ tử là những người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp nghiên văn. Trong nhom binh “dieu” se co cac ban, bac si, co giao. Câu thơ “Sâu lắm anh lính cõng ve chai” là một cảnh hài hước mà chua xót. Phép đảo ngữ của hai từ “liêu xiêu” ở đầu câu thơ gợi cảm giác liêu xiêu buồn bã “vai mang ché”. Lọ mực hay lọ nước trong ngày thi? Đạo giáo (chữ Hán) đang vào cuối mùa “Gà thần rụt phải cáo – Văn liều đấm ăn xôi”, nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai “Quăng gánh đi lính”. vác bình”.
Bức vẽ thứ hai cũng tài tình:
“Ưm, cái miệng của trường la lên”.
“Ummmm” có nghĩa là tỏ thái độ tức giận, đe dọa. Cấu trúc của câu thơ đảo ngữ, đặt hai từ tượng thanh “ư ớ” ở đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh quan lại “miệng gào lên”. Trường thi không còn là nơi tôn nghiêm, trật tự, quá lộn xộn, quá ồn ào, chẳng khác nào cảnh chợ búa nên quan trường mới “oanh” và “hét” như vậy. Tú Xương rất chỉnh chu, thể hiện hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Quân tử luộm thuộm, luộm thuộm làm mất đi vẻ nho nhã nho sĩ. Các quan, giám thị, quan tòa cũng không còn phong thái trang nghiêm, uy nghiêm vốn có. Biếm họa độc đáo này của Nhị Bình gợi lại buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
“Hạ gục người lính với cái chai trên vai,
Úi, miệng trường kêu gào”.
—/—
Như vậy, trường Trường THPT Trần Hưng Đạo đã trình bày xong bài văn mẫu Phân tích hình ảnh người chiến sĩ và người quan trường qua hai câu thực. Hi vọng sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình làm bài và thực hành với tác phẩm. Chúc các bạn học tốt môn Văn!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Văn lớp 11 , Ngữ Văn 11
Bạn thấy bài viết “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
| Ngữ Văn 11 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
| Ngữ Văn 11 bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Giáo dục
Trả lời