Vào thời nhà Đường ở Trung Quốc (618 – 907), thơ ca và nghệ thuật tăng trưởng vô cùng mạnh mẽ và đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ để lại trong núi 48.000 bài thơ, thơ Đường được xếp vào hàng thơ xuất sắc nhất của nhân loại.
Trong đó, Đỗ Phủ (712 – 770) là một trong những thi sĩ lớn nhất, được tôn là “Thánh thơ”. Ông là một thi sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, quan tâm tới cuộc sống, căm ghét bạo tàn. Chủ nghĩa hiện thực và nhân văn dạt dào trong hơn 1.400 bài thơ ông để lại, trình bày tâm hồn cao cả của một “thi sĩ dân gian da đen”. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều xấu số: sự nghiệp long đong, con mất, đày cửa ải, càng về cuối đời càng nghèo, cơm ko đủ ăn, ốm đau ko thuốc thang, chết trên thuyền. rách nát trên quê hương.
Bài ca mái nhà tranh bị gió tàn. được xếp vào hàng 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời. Năm 760 (hoặc 761) với sự tương trợ của bạn hữu, Du Fu đã xây dựng một mái tranh kế bên con lạch Ganhua ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ vài tháng sau, ngôi nhà đã bị phá hủy bởi một cơn bão. Năm đó, cuộc bạo loạn An – Sử vẫn diễn ra tàn khốc. Bài thơ gồm 23 câu, phần lớn là câu lục bát, có vài câu dài tới chục chữ, có cả vần lẫn vần. Từ “hát” trong bài thơ Mao Ốc Thu Phong Đàm Ca là một thể loại thơ cổ (cổ phong) có cội nguồn sâu xa với ca dao cổ. Nhiều thi sĩ đời Đường đã viết dạng “hát” này: Mùa thu (Sáng tỏ), Thiên đức phiêu ca kỵ binh. (Đỗ Phủ), Trường hận thù (Bai Ju Di ), vân vân..
Muốn cảm nhận Bài hát này của những ngôi nhà tranh bị gió phá hủycó nhẽ tôi nên đọc lại một trong hai bài thơ Nhớ bạn sau đây của Đỗ Phủ. Từ đó, chúng ta có thêm cơ sở để phân tích:
Đổ xô tới Châu Á
Tôi nghe nói bạn đói mọi lúc
Đường thăm còn vướng giặc.
Thư gửi biết người nào?
Thoát khỏi lo lắng
Buồn lúc ốm
Đầu hàng nước chảy
Nghìn nỗi buồn dài đằng đẵng!
(Bản dịch của Nhượng Tống)
Bài thơ Bài ca mái nhà tranh bị gió tàn. gồm 4 phần: 5 câu đầu nói bão làm sập nhà tranh, 5 câu sau nói lũ trẻ cướp tranh; 8 câu tiếp theo tả cảnh trời mưa tầm tã, nhà dột, hai cha con ngồi dưới mưa rét; 5 dòng cuối trình bày ước mơ của thi sĩ.
Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn gọn về trận gió thu. Đó là trận cuồng phong, hay cơn gió lốc tháng tám “gió cũ hú”. Ba lớp tranh của Đỗ Phủ bị “cuốn” bay khắp nơi. Có những bức tranh nằm tản mạn khắp bãi sông. Có bức tranh “treo rừng xa, có mảnh tranh vỡ rơi xuống mương”. Từ “thuật” (mao) được lặp lại 2, 3 lần, lối viết đã tái tạo lại trận cuồng phong làm bong tróc từng bức tranh một, thi sĩ ngờ ngạc, bất lực. Cả 5 câu thơ đều được ghép vần: “hao – Mao – Giao – Sao – Áo ”, là những vần có âm vang trình bày âm điệu thơ như khóc, than, về vần, Khương Hữu Dụng trình bày dụng ý nghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác:“ xưa – ta – xa – sa ”. .
Năm câu thơ tiếp theo trình bày sự hỗn loạn, đạo đức suy đồi tới cùng cực! Trẻ em láng giềng đổ xô đi ăn trộm những bức tranh nhưng mà Du Fu gọi là “kẻ trộm” – kẻ cướp. Họ khinh thường thi sĩ “già yếu”. Họ trơ trẽn trước tiếng kêu “môi khô ko kêu được”. Những đứa trẻ tham lam ăn trộm được bức tranh nào thì ngang nhiên “trộm bức tranh về cắm trên vách tre” bức tranh đó. Tương tự, sau thảm họa, gia đình thi sĩ lại gặp phải những “đạo tặc”, tức là những “chiến hữu” hạ đẳng, những “tiểu tướng…” của một xã hội tao loạn. Nếu khổ thơ thứ nhất chỉ nói về xấu số thì khổ thơ thứ hai lại tô thêm nỗi đau, nỗi xót xa trước một xã hội hỗn loạn, điên đảo, trong đó những “đám trẻ” vừa gian trá vừa tham lam.
Khổ thơ thứ ba lại thêm một thảm họa mới: trời mưa lạnh suốt đêm, nhưng mái nhà đã bị gió thu đánh sập. Lúc gió lặng, mây đen bao trùm cả trời đất. Mưa to suốt đêm. Nhà dột, giường ko có chỗ khô. Cái chăn rách hiện thời thấm nước lạnh như sắt. Các cụ thể nghệ thuật được mô tả vừa cụ thể vừa hiện thực: gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách …
Chăn lâu năm lạnh như sắt,
Tôi đang nằm và đá quần lót của tôi
Đầu giường bị dột ko rời.
Mưa to, mưa ko ngừng
Thi sĩ ngồi dưới mưa, ngồi dưới mưa suốt đêm. Tuổi cao, sức yếu, bệnh tật … Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương thân. Khổ cực dường như tích tụ, đổ dồn lên đầu một người vừa trải qua nhiều xấu số. Đêm dường như dài ra:
Bị rối loạn mất ngủ,
Như thế nào là đêm dài ẩm ướt trót lọt?
Khổ thơ thứ ba xét về bố cục có một ý nghĩa lớn, ghi lại đại họa vào một đêm thu mưa. Nó làm sáng tỏ thêm một kinh nghiệm sống: “Phúc ko trùng, họa chẳng hại!” Dân gian có câu: “Thứ nhất đói rách, thứ hai nợ nần, thứ ba nhà dột!”. Du Fu còn một nỗi khổ nữa, đó là tấm thân già nua, ốm yếu ngồi co ro trong mưa lạnh, nhìn cảnh vợ con nằm dầm mưa lạnh giá, nỗi khổ đó thật ko thể nào tả nổi. Chiếc chăn cũ kỹ, mỏng tanh lâu năm tầm thường ko đủ ấm, đêm nay bị đứa trẻ giẫm nát, xé rách trong mưa rét, mái nhà tan tành … là những cụ thể nghệ thuật nói lên cái nghèo, cái kết của một gia đình tan tành trong cuộc giữa tình trạng hỗn loạn, giống như trong bài báo Nhớ bạn ông viết: “Đau buồn lúc ốm đau – Để nước chảy – Nghìn nỗi buồn dài” …
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, ông sử dụng tất cả các vần thì ở khổ thơ thứ ba này ông đã sử dụng tất cả các vần: “sắc – đen – thiết – liệt – tuyệt – triệt”. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: đoạn thơ như nói lên nỗi đau đang thắt lại, dồn nén, cô đọng trong lòng thi sĩ.
Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ. Năm dòng cuối trình bày tấm lòng cao cả của một nhà nho chân chính: thương dân, chăm lo cho đời:
Mong muốn có một ngôi nhà nghìn gian,
Bao trọn người đời, nghèo vui, Mưa gió chẳng lay, vững như bàn thạch!
Chao ôi! Ngôi nhà sừng sững trước mắt cô
Còn lều của chúng tôi, chúng tôi ko thể chịu được cái lạnh!
Trong nỗi đau nghiệt ngã của cuộc đời, con người dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng ý thức, hay cúi đầu cam chịu, rồi than vãn cho số phận của chính mình. Cũng có thể ngồi dưới mưa lạnh suốt đêm, Đỗ Phủ có quyền nghĩ tới cái lều, cái mền, bát cơm, bếp lửa… cho vợ con và bản thân. Nhưng thi sĩ đã khiến người đọc bất thần trước mong ước của mình. Anh ước mơ có được một ngôi nhà khang trang “nghìn gian” vô cùng kiên cố. Ngôi nhà đó là của để “phủ khắp người đời, hiệp sĩ nghèo hạnh phúc”. Có thể nói, Đỗ Phủ có tình yêu lớn của một nhà Nho chân chính, sống và xử sự theo phương châm: “Lo trước người đời, vui sau người đời” (Phạm Trọng Yêm) ).
Thực tiễn, trên toàn cầu chưa từng có ngôi nhà “nghìn gian” tương tự. Khổ thơ được thông minh sử dụng giải pháp tu từ so sánh, thậm chí trình bày ước mơ lớn lao và cảm hứng lãng mạn dồi dào, ánh lên tấm lòng nhân ái rộng lớn của một con người từng trải qua nhiều xấu số giữa con người với nhau. thời loạn. Sau cuộc khởi nghĩa An – Sử, nhiều vùng rộng lớn bị đốt phá, hàng triệu người lâm vào cảnh bi đát: ko cơm ăn áo mặc, ko nhà cửa, khắp nơi người dân chết đói, chết khát. Vì vậy, thi sĩ mong muốn mọi người đều có một mái ấm gia đình. Lo cho đời và thương người, khát khao hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của biết bao bậc vĩ nhân, thi sĩ lớn xưa và nay. Thi sĩ Nguyễn Trãi cũng từng ước mơ có được một chiếc Ngự Cầm – dụng cụ thần thánh của vua Thuấn để đem lại no đủ, hạnh phúc cho muôn dân:
Thật dễ dàng để Yuqin chơi đàn luýt,
Người dân đủ giàu để khẳng định hướng đi.
(Kỳ thi nhạc phim quốc gia)
Trở lại Bài ca mái nhà tranh bị gió tàn., Tôi vô cùng xúc động trước lời nguyện cầu của “chiến sĩ” Đỗ Phủ. Đây là những lời ruột gan:
Chao ôi! Lúc nào ngôi nhà đó sẽ đứng trước mắt bạn,
Còn lều của chúng tôi, chúng tôi ko thể chịu được cái lạnh!
Nhìn thấy ngôi nhà đó là thấy cảnh yên bình, yên ả, hạnh phúc tới với mọi người, mọi nhà, kể cả những người nghèo khổ. Tác giả đưa ra một giả thiết rất có tâm và cảm động. Nếu thấy ngôi nhà “nghìn gian” trong mơ thành hiện thực, thì riêng Đỗ Phủ lại “lều chõng, chịu rét”.
Tính chân thực là yếu tố hàng đầu của xúc cảm thơ. Lời nguyền của Du Fu là rất thực. Ko chỉ bài thơ này nhưng mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ Tâm lại và Tạm biệtông nói về tình mến thương mãnh liệt và rộng lớn đối với nhân dân giữa thời tao loạn.
Có thể nói, 5 dòng cuối của bài thơ thấm đẫm tình người, chứa chan ý thức nhân đạo. Sự liên kết giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn đã tạo nên trị giá nhân văn thâm thúy.
Mười ba thế kỷ đã trôi qua, Bài ca mái nhà tranh bị gió tàn. Tác phẩm của Đỗ Phủ đã để lại cho chúng ta nhiều rung động và ám ảnh. Ám ảnh là những khổ cực, đắng cay của một đại thi hào đời Đường đã phải nếm trải. Rung động về một ước mơ đẹp tươi nhưng ko bao giờ đạt được trong một xã hội hỗn loạn, bất công và thối nát. Biết được hoàn cảnh bi đát của Đỗ Phủ sau lúc mái nhà bị tốc, phải đưa vợ con lên chiếc thuyền nhỏ rách nát trôi giữa sông Tương – mới cảm thu được chút tình nghĩa giàu có. . của bài thơ, cũng như vị chua của một đời người!
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích bài thơ “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Phân tích bài thơ “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời