Trương Hán Siêu là danh sĩ thời Trần, sau lúc mất được vua Trần truy tặng là Thiếu Bảo. Ông đã để lại bốn bài thơ và ba bài thơ Đức Thủy chạm khắc đá , Tín hiệu tháp thiêng, Khai Nghiêm tự kiểm, Bạch Đằng Giang Phú… Trong thơ ca cổ điển Việt Nam, có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng anh tài. Ko rõ Trương Hán Siêu viết gì Bạch Đằng Giang Phú Năm nào, nhưng qua giọng kể của nỗi nhớ:
Tôi xin lỗi vì người hùng vắng mặt
Thật xui xẻo, dấu vết rãnh vẫn còn,
Như chúng ta có thể đoán, lá bài này chỉ có thể ra đời sau lúc Trần Quốc Tuấn mất, tức là vào khoảng năm 1301-1354.
Bạch Đằng Giang Phú viết bằng chữ Hán. Đồng Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên … đã dịch khá thành công văn bản này. Nhận xét về Bạch Đằng Giang Phú Điều này dựa trên bản dịch của Giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Phú là thể loại văn học cổ dùng để mô tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố phô trương tập trung ở mức độ phong phú. Có phú cổ, Đường Lỗ giàu có. Phủ Cố có thể như một bài văn xuôi dài, có vần điệu nhưng mà ko nhất quyết phải có đối, cũng gọi là phú thủy. Luật Phú Đường được đặt ra từ thời nhà Đường, có vần, đối, có luật bằng chữ chặt chẽ, các kiểu câu phân định rõ ràng. Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu, viết theo lối cổ phú, gieo vần với cách sử dụng phép đối rất thông minh:
… Mùi khét lẹt mãi,
Mồm bia ko mòn.
Tới chơi trên sông
Nhớ người xưa chờ rơi lệ …
Qua bài này, Trương Hán Siêu truyền tụng sông Bạch Đằng hùng vĩ, con sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi của biết bao người hùng, với bao chiến công hiển hách của nhân dân ta trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Tác giả khẳng định: Núi non hiểm trở, nhiều bậc hiền tài đã làm nên truyền thống hào hùng của dân tộc, sự vững chắc của Tổ quốc muôn thuở. Lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc là nguồn cảm hứng chính của Bạch Đằng Giang Phú.
Buông gió để chơi vơi.
“Khách có người” trong Bạch Đằng Giang Phú Nhân vật trữ tình ko người nào khác chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài thơ cổ, nhân vật “khách” ko mấy xa lạ. Ngọc Liên Tỉnh Phú (bưu thiếp) Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (? -1346) cũng có một nhân vật “khách”:
Khách có người: nhà cao, chỗ ngồi,
trưa hè nóng nực.
Một cái ao trong xanh nhìn xuống làn nước xanh,
Bản nhạc bao trùm vịnh Phù Dung.
“Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi trình bày tấm lòng, chí khí, tài năng và hoài bão cao đẹp của một bậc nho sĩ ở đời.
Chúng ta từng biết Trương Hán Siêu là một danh sĩ thời Trần, tính tình thẳng thắn, tâm hồn tự tại. Chín câu đầu cho thấy “khách” là người có rượu, thơ “chơi vơi” dưới cánh buồm, làm bạn với trăng gió qua mọi miền sông biển. Sống trọn vẹn với tự nhiên, đi du lịch thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm hôm “chơi với trăng siêng năng”, ban ngày:
Gõ thuyền sớm đợi Nguyên Tường;
Chiều thăm Vũ Huyệt, …
Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Những danh lam thắng cảnh như Nguyên Tượng, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều nằm trong non sông Trung Hoa rộng lớn, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng trình bày một tư cách, một tâm tư. tâm hồn: yêu tự nhiên tha thiết, lấy du lịch làm thú vui trong cuộc sống, tự hào về thói “gypsy” của mình:
Mọi người đi đâu
Nơi nào ko biết.
Địa danh lạ ko chỉ đẹp nhưng mà còn gợi cả một ko gian rộng lớn, chỉ những người nào có hoài bão, có “đức trượng phu” mới có thể “chèo thuyền… lướt sóng” mới đi được. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi danh lam thắng cảnh. Nhưng “khách” đã “chứa mấy trăm trong bụng”, đã nhiều lần tới thăm và đã từng thưởng thức nhiều cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa chấp thuận, vẫn “liều mình” vái tứ xứ.
Đầm Vân Mộng chứa mấy trăm trong bụng.
Nhưng bốn phương vẫn tha thiết.
Phần đầu của bài viết nói về cốt cách của người sĩ phu: hòa hợp với tự nhiên, lấy chữ nhàn làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.
Qua cửa Đại Than … tới sông Bạch Đằng
Đoạn tiếp theo nói lên thú vui của thi sĩ lúc được thăm sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu theo di nguyện của người xưa là “học Tử Trường”, lên vùng Đông Bắc “bỏ chèo” để thỏa chí “ăn kiêng” của mình. Người xưa nói: “Muốn học chữ viết của Tư Mã Tử Trường thì trước hết phải học lối chơi chữ của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ truyện Biên niên sử bất tử, một nhà văn, nhà sử học tài giỏi thời Hán. Người đó xưa nay vẫn được coi là du khách duy nhất vô nhị. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ mộng theo núi sông:
Qua cổng Đại Than, đối diện bến Đông Triều,
Tới sông Bạch Đằng, mái chèo nổi
Những con sóng lớn hàng nghìn dặm
Bạch Đằng giang, non sông gấm vóc của Tổ quốc Đại Việt. Con sông rộng và dài, lăn tăn, nhấp nhô. Cuối thu (ba thu), bầu trời một màu xanh rộng lớn:
Những con sóng lớn hàng nghìn dặm
Đuôi trĩ một màu
Thiên đường: một màu
Phong cảnh: ba mùa thu.
Câu tả thực mượn hình tượng Vương Bân. trong bài viết Đặng Vương Các : “Thu thủy nhất sắc thiên thu” (Sông thu trời thu một màu). Mô tả về con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) đã viết: “Thương Lương nuốt nước triều, cuộn sóng bạc … Thấy nước sông soi bóng nắng chiều đỏ; Lầm tưởng máu người chết chưa khô ”(Bạch Đằng Giang – dịch). Cảnh núi non, bãi biển tái tạo lại cảnh chiến trường rùng rợn một thời:
Cận cảnh nhà băng lau nhà
Bến buồn tẻ
Sông chìm giáo gãy Gò đầy xương khô
Bờ sậy và bến nước gợi ko khí hoang vắng, hiu quạnh. Núi đồi như gươm giáo, xương máu giặc phương bắc chất đống. Nét vẽ hùng vĩ đó, một thế kỷ sau Ức Trai còn viết:
Kính lởm chởm băm chặt choáng váng
Ngọn giáo đánh chìm thanh kiếm và phá vỡ bãi biển
(Cửa sông Bạch Đằng )
Trương Hán Siêu mô tả sông Bạch Đằng bằng những đường nét gợi cảm, máu lửa. Những ẩn dụ và liên tưởng mới về dòng sông lịch sử hào hùng được mô tả qua những cặp câu song song và trật tự thích mắt. Mấy chục năm sau thắng lợi lớn lao trên sông Bạch Đằng (1288), thi sĩ lúc về thăm dòng sông đã bổi hổi xúc động:
Buồn vì cảnh tang thương
Đứng yên một lúc lâu
Tôi xin lỗi vì người hùng vắng mặt
Thật xui xẻo, dấu vết rãnh vẫn còn.
Một tâm trạng: “ngùi ngùi, tiếc thương”, niềm xúc động “đứng lặng thật lâu” của “khách” đều trình bày niềm xúc động, tiếc thương và lòng hàm ân thâm thúy, vô hạn đối với các người hùng liệt sĩ đã mang tiếng người hùng liệt sĩ. máu xương bảo vệ non sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình yêu thủy chung “uống nước nhớ nguồn”:
Nhưng nỗi nhục của quân thù ko thể rửa sạch.
Elders – nhân vật thứ hai xuất hiện trong thẻ. Từ mô tả và trữ tình, thi sĩ chuyển sang tự sự, tiếng nói sinh hoạt chuyển hẳn, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu sử thi dạt dào như những con sóng trên sông Bạch Đằng. Khách và người lớn tuổi nhìn dòng sông, nhìn những con sóng nhấp nhô như được sống lại những năm tháng hào hùng, oanh liệt của ông cha mình:
Đây là trận địa lúc Nhị Thánh Trùng Hùng xâm chiếm Ô Mã,
Nơi đây cũng là đất cũ trước lúc chúa Ngô diệt Hoằng Thao.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: Cảm nhận về tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” (1) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: Cảm nhận về tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” (1) bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Trả lời