Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, có nhiều tôn giáo, tôn giáo. Vì vậy, việc nhận diện, phân biệt các loại hình tôn giáo bản địa còn nhiều dấu vết sơ khai của cư dân nông nghiệp như Đạo Mẫu, thờ Mẫu là điều ko dễ dàng.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, có nhiều tôn giáo, tôn giáo. Vì vậy, việc nhận diện, phân biệt các loại hình tôn giáo bản địa còn nhiều dấu vết sơ khai của cư dân nông nghiệp như Đạo Mẫu, thờ Mẫu là điều ko dễ dàng.
Thánh Mẫu là tôn giáo bản địa có xuất xứ từ thời nguyên thủy, lấy Mẫu (Mẫu) là đấng thông minh và duy trì vũ trụ và con người, là nơi con người gửi gắm những mong muốn, khát vọng về cuộc sống. sự giàu có, sức khỏe, may mắn và tài lộc. Đây ko phải là một hình thức tôn giáo tôn giáo thống nhất. Đó là một hệ thống tôn giáo ít nhất có ba từng lớp không giống nhau nhưng tác động hữu cơ và tác động lẫn nhau. Đó là hạng thờ Mẫu, hạng thờ Mẫu và hạng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Tục thờ Mẫu có tính phổ quát, rộng khắp, thích hợp với xã hội nông nghiệp, nơi nhưng mà vai trò của người phụ nữ được đặc thù coi trọng. Lớp thờ Nữ thần tăng trưởng trên cơ sở của lớp thờ Nữ thần, thường gắn với yếu tố quốc gia, thờ Vương Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu như Nguyên Phi Ỷ Lan, Mẫu Tây Thiên, Thánh Mẫu, Thánh Gióng hay Linh Sơn Thánh Mẫu… Từng lớp tôn giáo thờ Mẫu và Thánh Mẫu mang tính bản địa và thuần túy nội sinh. Ba lớp tôn giáo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được tạo nên trên cơ sở hai lớp tôn giáo trên liên kết với sự tiếp thu tác động của Đạo giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, theo thời kì, lớp tôn giáo này đã trở lại với những đặc điểm tiêu biểu của một tôn giáo bản địa hơn.
Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 75 vị nữ thần tiêu biểu, trong đó có 3 vị nữ thần tồn tại trong truyền thuyết là ba chị em, con của Ngọc Hoàng giáng trần và được giao cai quản ba miền. Miền Bắc với chủ đạo là Tiên Chúa (Thánh Mẫu Liễu Hạnh – Vân Cát Nữ Thần), Miền Trung với Thiên Y A NA Diễn Phi Chúa Ngọc (phỏng theo hình tượng Thánh Mẫu Ponagar – Mẹ Đất Nước – Mẹ Đất Dân) dân tộc Chăm) và Nam Bộ với Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen còn gọi là Bà Thắc, Bà Đanh, Bà Đenh), đều là những vị đang trú ngụ trong tôn giáo thờ Mẫu ở Việt Nam hiện nay.
Người dân Đại Việt xưa thờ Tam Thánh Mẫu. Tục thờ Mẫu của người Việt ra đời trên cơ sở của tục thờ Mẫu; Các Ngài được thờ trong các đình, chùa, miếu, phủ, nhất là trong một loại hình kiến trúc đặc thù (Phủ) như Tôn giáo thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Theo lịch sử lâu đời ở nước ta, tôn giáo thờ Mẫu đã tăng trưởng cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ. Ở các làng quê, đô thị Bắc Bộ từ xa xưa, trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ đều tôn thờ Thánh Mẫu rất thành kính.
1. Tôn giáo thờ Mẫu là gì?
Thờ Mẫu là tôn giáo dân gian có từ lâu đời và phổ quát ở Việt Nam. Xuất xứ của tôn giáo hàng ngày xuất phát từ lòng hàm ơn đối với các bà, các mẹ trong nhận thức sơ khai của con người. Tôn giáo thờ Mẫu trình bày sự tôn giáo, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ tự các Nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, được con người tin là có tác dụng thông minh, sản xuất và bảo trợ. và bảo vệ sự sống của con người như: trời, đất, sông, nước, rừng…
Tôn giáo thờ Mẫu được hiểu theo nghĩa hẹp hơn là một hình thức tôn giáo gọi là Tôn giáo thờ Mẫu – Tứ Phủ, một hình thức thờ các vị Thánh Mẫu cai quản vũ trụ.
2. Tôn giáo thờ Mẫu là tôn giáo dân gian có một số đặc điểm
Tôn giáo thờ Mẫu được tạo nên trong cơ chế Mẫu hệ, lúc người ta còn thờ Mẫu, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo chính thống như thuyết sáng thế, giáo luật, giáo lý, giáo hội và hệ thống. tổ chức..Trong tôn giáo thờ Mẫu, yếu tố tôn giáo còn dựa vào nhận thức của chủ thể, tức là mỗi người có một tôn giáo không giống nhau, ko có tính hệ thống.
Cho tới ngày nay, ko người nào biết chuẩn xác tôn giáo thờ Mẫu trong văn hóa tâm linh của người Việt được tạo nên từ bao giờ. Có người cho rằng, tục thờ Mẫu có từ xa xưa lúc người Việt còn thờ các vị thần tự nhiên như trời, đất, sông, nước, núi non. Tôn giáo thờ Mẫu là sự tôn vinh các vị thần có sức mạnh siêu tự nhiên, chế ngự tự nhiên, vốn có tính quy luật. Trong quá trình sống sót, con người phải dựa vào tự nhiên nên họ tôn thờ các hiện tượng tự nhiên xung quanh mình như một đấng vô thượng với hình tượng Đức Mẹ – người mẹ. Họ thờ Mẫu với mong muốn được chở che, bảo vệ và phù trợ trong cuộc sống.
3. Vai trò của Tôn giáo thờ Mẫu trong đời sống
Trong tôn giáo thờ Mẫu, nét đẹp của lễ hội là đề cao, khuyến khích những phẩm chất tốt đẹp của số đông, được trình bày qua các nhân vật chủ lễ. Các nhân vật trong tôn giáo thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và trình bày khát vọng của số đông được tích tụ trong đó.
Tôn giáo thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin, kỳ vọng, chỗ dựa ý thức cho một bộ phận nhân dân lúc tin và theo tôn giáo này. Ngoài ra, các lễ hội trong tôn giáo thờ Mẫu còn mang tính chất thiêng liêng, trình bày tình cảm, sự ngưỡng mộ đối với vai trò của người mẹ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hoạt động tôn giáo thờ Mẫu đã giúp gắn kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của thành kiến tôn giáo hay địa phương để hướng về cùng một nhân vật linh thiêng, với một lễ hội thống nhất. Tốt. Nó còn tạo thiện chí ở mỗi người trong các mối quan hệ xã hội.
Miếu thờ Mẫu có ở khắp nơi trên tổ quốc ta từ đồng bằng tới miền núi, từ trong nước tới số đông người Việt Nam ở nước ngoài. Có nơi là những ngôi chùa nguy nga, có nét đặc trưng, có nơi lại mang dáng dấp của một ngôi chùa, đình, đền hay miếu mạo nào đó, có nơi chỉ là những ngôi miếu nhỏ. Hầu như người ta chỉ có thể nhìn thấy nơi thờ Mẫu lúc quan sát những nét riêng trong kiến trúc tổng thể hoặc cách bài trí điện thờ và đặc điểm riêng của nghi lễ thờ Mẫu. Chính những đặc điểm này đã góp phần tạo nên một loại hình tôn giáo thuần Việt, rực rỡ.
giáng sinh trước tiên
Công Chúa Liễu Hạnh là một trong những vị thần quan trọng của tôn giáo Việt Nam, đứng đầu trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ thờ Mẫu. Nhiều làng và thị trấn ở miền bắc Việt Nam có đền thờ Bà. Bà còn được gọi với các tên: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hay nhiều nơi ở miền Bắc gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Tương truyền, Mẫu Liễu Hạnh vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế, đã ba lần giáng trần. Lần trước tiên cô đầu thai làm con gái của một cặp vợ chồng già ở Nam Định là ông Phạm Huyền Viễn và bà Đoàn Thị Hằng, tuy sống hiền lành, đức độ ngoài 40 tuổi nhưng chưa có một con nối dõi. .
Một đêm rằm tháng hai, ông bà được báo mộng rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế sẽ hạ sinh một cô con gái thứ hai, từ đó cô mang thai. Trước lúc Ngài đản sanh, đêm mồng 6 tháng 3 năm Kỷ Sửu, trời quang mây vàng như vầng hào quang. Ngài Huyền Viễn ngồi đợi tin vui, bỗng có một bà tiên từ trên mây xuống, hạ sinh một nhỏ gái. Thế là ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi công việc nội trợ chị đều thành thục và đảm đang. Tới năm 15 tuổi, nhiều người tới đặt vấn đề nhưng cô từ chối vì còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già và toan lo việc gia đình. Tuổi già rồi cũng tới, song thân của Tiên Nga cũng về chốn bồng lai tiên giới. Sau đó, bà mở đầu đi khắp nơi làm việc thiện, giúp đời và mất năm 40 tuổi (thời Hồng Đức năm 1473).
Giáng sinh thứ hai
Giáng sinh thứ hai, Mẫu Liễu Hạnh trở thành con của ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc, quê ở Nam Định, cách quê cũ khoảng 7 km. Sau lúc sinh được bà, ông Lê Thái Công nhìn mặt con thấy nét mặt giống như tiên nữ bưng khay rượu vào tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng nên đặt tên con là Lệ Giang Tiên.
Lần này, công chúa Liễu Hạnh thành hôn với ông Trần Đạo Lăng, sinh được đàn ông tên Nhân và con gái tên Hoa. Trong lúc cả nhà đang yên ấm hạnh phúc thì bà đột ngột nhắm mắt xuôi tay, năm đó bà mới 21 tuổi vào năm Đinh Sửu (1577), hoàn toàn ko bệnh tật gì.
Giáng sinh thứ ba
Tương truyền, vì lòng trung nghĩa với chồng con nơi trần gian, năm Canh Dần (1650), Thánh Mẫu Liễu Hạnh tái sinh tại đất Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 10 tháng 10. , gặp lại anh Trần Đạo lúc này đã đầu thai thành Mai Thanh Lâm, sinh được một người đàn ông.
Bà mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân (1668). Lúc đó cô mới 18 tuổi. Dòng dõi thứ ba của bà là vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tình lầm than, cùng cực. Cô đi khắp nơi để cứu nhân loại và trừng trị kẻ ác. Vì vậy, nhân dân đã lập đền thờ tại nơi bà giáng trần (đền Sòng, Thanh Hóa).
Lúc xuống trần gian, nàng lấy hiệu là Liễu Hạnh, ngao du sơn thủy, thưởng ngoạn cảnh đẹp non sông hùng vĩ và gặp mặt, giao tế với nhiều người, đặc thù là các văn nhân khách (trong đó có Phùng Khắc). Chờ vậy nhưng mà cuộc họp này để lại dấu vết là phủ Tây Hồ).
Cũng có câu chuyện kể rằng vào thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433), Liễu Hạnh mở một shop bán đồ cho khách bộ hành dưới chân Đèo Ngang. Lời đồn về một cô gái xinh đẹp bán hàng ở nơi thu hút đó khiến nhiều người tò mò, kể cả hoàng tử đương thời. Người này tới quán nước với ý đồ xấu xa nên bị Liễu Hạnh làm cho hóa điên.
Nhà vua, với sự tương trợ của tám vị Kim Cương Tát Đỏa, đã lừa được Tiên Thiên. Họ đem Thần tiên tới kinh sách để xin thứ tội. Sau lúc nghe Tiên nữ kể lại hành vi của Thái tử, nhà vua cảm thấy xấu hổ nên đã tha mạng cho nàng, sau đó nói lời cảm ơn và chúc Tiên nữ gặp nhiều may mắn.
Trong Đạo Mẫu, Bà Chúa Liễu Hạnh được tôn vinh là Thánh Mẫu, là hóa thân của Đệ nhất Thánh Mẫu, được thờ ở trung tâm Tam phủ Thánh Mẫu. Trong tôn giáo dân gian nói chung, Bà là một trong Tứ bất tử, họ là những người sinh ra trong thời buổi thiến nạn, sự xuất hiện của họ như một nơi nương tựa cho những người nghèo túng về ý thức.
Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh được coi là một dấu ấn của đạo Mẫu và cơ chế Mẫu hệ, qua đó cho chúng ta thấy vị trí quan trọng của người phụ nữ trong tiềm thức người Việt Nam.
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Đạo mẫu và Tín ngưỡng thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh” state=”close”]
Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh
Hình Ảnh về: Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh
Video về: Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh
Wiki về Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh
Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh -
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, có nhiều tôn giáo, tôn giáo. Vì vậy, việc nhận diện, phân biệt các loại hình tôn giáo bản địa còn nhiều dấu vết sơ khai của cư dân nông nghiệp như Đạo Mẫu, thờ Mẫu là điều ko dễ dàng.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, có nhiều tôn giáo, tôn giáo. Vì vậy, việc nhận diện, phân biệt các loại hình tôn giáo bản địa còn nhiều dấu vết sơ khai của cư dân nông nghiệp như Đạo Mẫu, thờ Mẫu là điều ko dễ dàng.
Thánh Mẫu là tôn giáo bản địa có xuất xứ từ thời nguyên thủy, lấy Mẫu (Mẫu) là đấng thông minh và duy trì vũ trụ và con người, là nơi con người gửi gắm những mong muốn, khát vọng về cuộc sống. sự giàu có, sức khỏe, may mắn và tài lộc. Đây ko phải là một hình thức tôn giáo tôn giáo thống nhất. Đó là một hệ thống tôn giáo ít nhất có ba từng lớp không giống nhau nhưng tác động hữu cơ và tác động lẫn nhau. Đó là hạng thờ Mẫu, hạng thờ Mẫu và hạng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Tục thờ Mẫu có tính phổ quát, rộng khắp, thích hợp với xã hội nông nghiệp, nơi nhưng mà vai trò của người phụ nữ được đặc thù coi trọng. Lớp thờ Nữ thần tăng trưởng trên cơ sở của lớp thờ Nữ thần, thường gắn với yếu tố quốc gia, thờ Vương Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu như Nguyên Phi Ỷ Lan, Mẫu Tây Thiên, Thánh Mẫu, Thánh Gióng hay Linh Sơn Thánh Mẫu… Từng lớp tôn giáo thờ Mẫu và Thánh Mẫu mang tính bản địa và thuần túy nội sinh. Ba lớp tôn giáo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được tạo nên trên cơ sở hai lớp tôn giáo trên liên kết với sự tiếp thu tác động của Đạo giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, theo thời kì, lớp tôn giáo này đã trở lại với những đặc điểm tiêu biểu của một tôn giáo bản địa hơn.
Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 75 vị nữ thần tiêu biểu, trong đó có 3 vị nữ thần tồn tại trong truyền thuyết là ba chị em, con của Ngọc Hoàng giáng trần và được giao cai quản ba miền. Miền Bắc với chủ đạo là Tiên Chúa (Thánh Mẫu Liễu Hạnh - Vân Cát Nữ Thần), Miền Trung với Thiên Y A NA Diễn Phi Chúa Ngọc (phỏng theo hình tượng Thánh Mẫu Ponagar - Mẹ Đất Nước - Mẹ Đất Dân) dân tộc Chăm) và Nam Bộ với Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen còn gọi là Bà Thắc, Bà Đanh, Bà Đenh), đều là những vị đang trú ngụ trong tôn giáo thờ Mẫu ở Việt Nam hiện nay.
Người dân Đại Việt xưa thờ Tam Thánh Mẫu. Tục thờ Mẫu của người Việt ra đời trên cơ sở của tục thờ Mẫu; Các Ngài được thờ trong các đình, chùa, miếu, phủ, nhất là trong một loại hình kiến trúc đặc thù (Phủ) như Tôn giáo thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Theo lịch sử lâu đời ở nước ta, tôn giáo thờ Mẫu đã tăng trưởng cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ. Ở các làng quê, đô thị Bắc Bộ từ xa xưa, trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ đều tôn thờ Thánh Mẫu rất thành kính.
1. Tôn giáo thờ Mẫu là gì?
Thờ Mẫu là tôn giáo dân gian có từ lâu đời và phổ quát ở Việt Nam. Xuất xứ của tôn giáo hàng ngày xuất phát từ lòng hàm ơn đối với các bà, các mẹ trong nhận thức sơ khai của con người. Tôn giáo thờ Mẫu trình bày sự tôn giáo, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ tự các Nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, được con người tin là có tác dụng thông minh, sản xuất và bảo trợ. và bảo vệ sự sống của con người như: trời, đất, sông, nước, rừng...
Tôn giáo thờ Mẫu được hiểu theo nghĩa hẹp hơn là một hình thức tôn giáo gọi là Tôn giáo thờ Mẫu - Tứ Phủ, một hình thức thờ các vị Thánh Mẫu cai quản vũ trụ.
2. Tôn giáo thờ Mẫu là tôn giáo dân gian có một số đặc điểm
Tôn giáo thờ Mẫu được tạo nên trong cơ chế Mẫu hệ, lúc người ta còn thờ Mẫu, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo chính thống như thuyết sáng thế, giáo luật, giáo lý, giáo hội và hệ thống. tổ chức..Trong tôn giáo thờ Mẫu, yếu tố tôn giáo còn dựa vào nhận thức của chủ thể, tức là mỗi người có một tôn giáo không giống nhau, ko có tính hệ thống.
Cho tới ngày nay, ko người nào biết chuẩn xác tôn giáo thờ Mẫu trong văn hóa tâm linh của người Việt được tạo nên từ bao giờ. Có người cho rằng, tục thờ Mẫu có từ xa xưa lúc người Việt còn thờ các vị thần tự nhiên như trời, đất, sông, nước, núi non. Tôn giáo thờ Mẫu là sự tôn vinh các vị thần có sức mạnh siêu tự nhiên, chế ngự tự nhiên, vốn có tính quy luật. Trong quá trình sống sót, con người phải dựa vào tự nhiên nên họ tôn thờ các hiện tượng tự nhiên xung quanh mình như một đấng vô thượng với hình tượng Đức Mẹ - người mẹ. Họ thờ Mẫu với mong muốn được chở che, bảo vệ và phù trợ trong cuộc sống.
3. Vai trò của Tôn giáo thờ Mẫu trong đời sống
Trong tôn giáo thờ Mẫu, nét đẹp của lễ hội là đề cao, khuyến khích những phẩm chất tốt đẹp của số đông, được trình bày qua các nhân vật chủ lễ. Các nhân vật trong tôn giáo thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và trình bày khát vọng của số đông được tích tụ trong đó.
Tôn giáo thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin, kỳ vọng, chỗ dựa ý thức cho một bộ phận nhân dân lúc tin và theo tôn giáo này. Ngoài ra, các lễ hội trong tôn giáo thờ Mẫu còn mang tính chất thiêng liêng, trình bày tình cảm, sự ngưỡng mộ đối với vai trò của người mẹ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hoạt động tôn giáo thờ Mẫu đã giúp gắn kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của thành kiến tôn giáo hay địa phương để hướng về cùng một nhân vật linh thiêng, với một lễ hội thống nhất. Tốt. Nó còn tạo thiện chí ở mỗi người trong các mối quan hệ xã hội.
Miếu thờ Mẫu có ở khắp nơi trên tổ quốc ta từ đồng bằng tới miền núi, từ trong nước tới số đông người Việt Nam ở nước ngoài. Có nơi là những ngôi chùa nguy nga, có nét đặc trưng, có nơi lại mang dáng dấp của một ngôi chùa, đình, đền hay miếu mạo nào đó, có nơi chỉ là những ngôi miếu nhỏ. Hầu như người ta chỉ có thể nhìn thấy nơi thờ Mẫu lúc quan sát những nét riêng trong kiến trúc tổng thể hoặc cách bài trí điện thờ và đặc điểm riêng của nghi lễ thờ Mẫu. Chính những đặc điểm này đã góp phần tạo nên một loại hình tôn giáo thuần Việt, rực rỡ.
giáng sinh trước tiên
Công Chúa Liễu Hạnh là một trong những vị thần quan trọng của tôn giáo Việt Nam, đứng đầu trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ thờ Mẫu. Nhiều làng và thị trấn ở miền bắc Việt Nam có đền thờ Bà. Bà còn được gọi với các tên: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hay nhiều nơi ở miền Bắc gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Tương truyền, Mẫu Liễu Hạnh vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế, đã ba lần giáng trần. Lần trước tiên cô đầu thai làm con gái của một cặp vợ chồng già ở Nam Định là ông Phạm Huyền Viễn và bà Đoàn Thị Hằng, tuy sống hiền lành, đức độ ngoài 40 tuổi nhưng chưa có một con nối dõi. .
Một đêm rằm tháng hai, ông bà được báo mộng rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế sẽ hạ sinh một cô con gái thứ hai, từ đó cô mang thai. Trước lúc Ngài đản sanh, đêm mồng 6 tháng 3 năm Kỷ Sửu, trời quang mây vàng như vầng hào quang. Ngài Huyền Viễn ngồi đợi tin vui, bỗng có một bà tiên từ trên mây xuống, hạ sinh một nhỏ gái. Thế là ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi công việc nội trợ chị đều thành thục và đảm đang. Tới năm 15 tuổi, nhiều người tới đặt vấn đề nhưng cô từ chối vì còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già và toan lo việc gia đình. Tuổi già rồi cũng tới, song thân của Tiên Nga cũng về chốn bồng lai tiên giới. Sau đó, bà mở đầu đi khắp nơi làm việc thiện, giúp đời và mất năm 40 tuổi (thời Hồng Đức năm 1473).
Giáng sinh thứ hai
Giáng sinh thứ hai, Mẫu Liễu Hạnh trở thành con của ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc, quê ở Nam Định, cách quê cũ khoảng 7 km. Sau lúc sinh được bà, ông Lê Thái Công nhìn mặt con thấy nét mặt giống như tiên nữ bưng khay rượu vào tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng nên đặt tên con là Lệ Giang Tiên.
Lần này, công chúa Liễu Hạnh thành hôn với ông Trần Đạo Lăng, sinh được đàn ông tên Nhân và con gái tên Hoa. Trong lúc cả nhà đang yên ấm hạnh phúc thì bà đột ngột nhắm mắt xuôi tay, năm đó bà mới 21 tuổi vào năm Đinh Sửu (1577), hoàn toàn ko bệnh tật gì.
Giáng sinh thứ ba
Tương truyền, vì lòng trung nghĩa với chồng con nơi trần gian, năm Canh Dần (1650), Thánh Mẫu Liễu Hạnh tái sinh tại đất Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 10 tháng 10. , gặp lại anh Trần Đạo lúc này đã đầu thai thành Mai Thanh Lâm, sinh được một người đàn ông.
Bà mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân (1668). Lúc đó cô mới 18 tuổi. Dòng dõi thứ ba của bà là vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tình lầm than, cùng cực. Cô đi khắp nơi để cứu nhân loại và trừng trị kẻ ác. Vì vậy, nhân dân đã lập đền thờ tại nơi bà giáng trần (đền Sòng, Thanh Hóa).
Lúc xuống trần gian, nàng lấy hiệu là Liễu Hạnh, ngao du sơn thủy, thưởng ngoạn cảnh đẹp non sông hùng vĩ và gặp mặt, giao tế với nhiều người, đặc thù là các văn nhân khách (trong đó có Phùng Khắc). Chờ vậy nhưng mà cuộc họp này để lại dấu vết là phủ Tây Hồ).
Cũng có câu chuyện kể rằng vào thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433), Liễu Hạnh mở một shop bán đồ cho khách bộ hành dưới chân Đèo Ngang. Lời đồn về một cô gái xinh đẹp bán hàng ở nơi thu hút đó khiến nhiều người tò mò, kể cả hoàng tử đương thời. Người này tới quán nước với ý đồ xấu xa nên bị Liễu Hạnh làm cho hóa điên.
Nhà vua, với sự tương trợ của tám vị Kim Cương Tát Đỏa, đã lừa được Tiên Thiên. Họ đem Thần tiên tới kinh sách để xin thứ tội. Sau lúc nghe Tiên nữ kể lại hành vi của Thái tử, nhà vua cảm thấy xấu hổ nên đã tha mạng cho nàng, sau đó nói lời cảm ơn và chúc Tiên nữ gặp nhiều may mắn.
Trong Đạo Mẫu, Bà Chúa Liễu Hạnh được tôn vinh là Thánh Mẫu, là hóa thân của Đệ nhất Thánh Mẫu, được thờ ở trung tâm Tam phủ Thánh Mẫu. Trong tôn giáo dân gian nói chung, Bà là một trong Tứ bất tử, họ là những người sinh ra trong thời buổi thiến nạn, sự xuất hiện của họ như một nơi nương tựa cho những người nghèo túng về ý thức.
Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh được coi là một dấu ấn của đạo Mẫu và cơ chế Mẫu hệ, qua đó cho chúng ta thấy vị trí quan trọng của người phụ nữ trong tiềm thức người Việt Nam.
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align:center”>
1. Tín ngưỡng thờ Mẫu là gì?
Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Nguồn gốc của tín ngưỡng hàng ngày xuất phát từ lòng biết ơn đối với các bà, các mẹ trong nhận thức sơ khai của con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện sự tín ngưỡng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ cúng các Nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, được con người tin là có chức năng sáng tạo, sản xuất và bảo trợ. và bảo vệ sự sống của con người như: trời, đất, sông, nước, rừng…
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hiểu theo nghĩa hẹp hơn là một hình thức tín ngưỡng gọi là Tín ngưỡng thờ Mẫu – Tứ Phủ, một hình thức thờ các vị Thánh Mẫu cai quản vũ trụ.
2. Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian có một số đặc điểm
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành trong chế độ Mẫu hệ, khi người ta còn thờ Mẫu, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tín ngưỡng chính thống như thuyết sáng thế, giáo luật, giáo lý, giáo hội và hệ thống. tổ chức..Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, yếu tố tín ngưỡng còn dựa vào nhận thức của chủ thể, tức là mỗi người có một tín ngưỡng khác nhau, không có tính hệ thống.
Cho đến ngày nay, không ai biết chính xác tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa tâm linh của người Việt được hình thành từ bao giờ. Có người cho rằng, tục thờ Mẫu có từ xa xưa khi người Việt còn thờ các vị thần tự nhiên như trời, đất, sông, nước, núi non. Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tôn vinh các vị thần có sức mạnh siêu nhiên, chế ngự tự nhiên, vốn có tính quy luật. Trong quá trình sinh tồn, con người phải dựa vào tự nhiên nên họ tôn thờ các hiện tượng tự nhiên xung quanh mình như một đấng tối cao với hình tượng Đức Mẹ – người mẹ. Họ thờ Mẫu với mong muốn được che chở, bảo vệ và phù hộ trong cuộc sống.
3. Vai trò của Tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, nét đẹp của lễ hội là đề cao, khuyến khích những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng, được thể hiện qua các nhân vật chủ lễ. Các nhân vật trong tín ngưỡng thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và thể hiện khát vọng của cộng đồng được tích tụ trong đó.
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận nhân dân khi tin và theo tín ngưỡng này. Ngoài ra, các lễ hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn mang tính chất thiêng liêng, thể hiện tình cảm, sự ngưỡng mộ đối với vai trò của người mẹ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu đã giúp gắn kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của định kiến tôn giáo hay địa phương để hướng về cùng một đối tượng linh thiêng, với một lễ hội thống nhất. Tốt. Nó còn tạo thiện chí ở mỗi người trong các mối quan hệ xã hội.
Miếu thờ Mẫu có ở khắp nơi trên đất nước ta từ đồng bằng đến miền núi, từ trong nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Có nơi là những ngôi chùa nguy nga, có nét đặc trưng, có nơi lại mang dáng dấp của một ngôi chùa, đình, đền hay miếu mạo nào đó, có nơi chỉ là những ngôi miếu nhỏ. Hầu như người ta chỉ có thể nhận ra nơi thờ Mẫu khi quan sát những nét riêng trong kiến trúc tổng thể hoặc cách bài trí điện thờ và đặc điểm riêng của nghi lễ thờ Mẫu. Chính những đặc điểm này đã góp phần tạo nên một loại hình tín ngưỡng thuần Việt, đặc sắc.
giáng sinh đầu tiên
Công Chúa Liễu Hạnh là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam, đứng đầu trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ thờ Mẫu. Nhiều làng và thị trấn ở miền bắc Việt Nam có đền thờ Bà. Bà còn được gọi với các tên: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hay nhiều nơi ở miền Bắc gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Tương truyền, Mẫu Liễu Hạnh vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế, đã ba lần giáng trần. Lần đầu tiên cô đầu thai làm con gái của một cặp vợ chồng già ở Nam Định là ông Phạm Huyền Viễn và bà Đoàn Thị Hằng, tuy sống hiền lành, đức độ ngoài 40 tuổi nhưng chưa có một con nối dõi. .
Một đêm rằm tháng hai, ông bà được báo mộng rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế sẽ hạ sinh một cô con gái thứ hai, từ đó cô mang thai. Trước khi Ngài đản sanh, đêm mồng 6 tháng 3 năm Kỷ Sửu, trời quang mây vàng như vầng hào quang. Ngài Huyền Viễn ngồi đợi tin vui, bỗng có một bà tiên từ trên mây xuống, hạ sinh một bé gái. Thế là ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi công việc nội trợ chị đều thành thạo và đảm đang. Đến năm 15 tuổi, nhiều người đến đặt vấn đề nhưng cô từ chối vì còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già và lo toan việc gia đình. Tuổi già rồi cũng đến, song thân của Tiên Nga cũng về chốn bồng lai tiên cảnh. Sau đó, bà bắt đầu đi khắp nơi làm việc thiện, giúp đời và mất năm 40 tuổi (thời Hồng Đức năm 1473).
Giáng sinh thứ hai
Giáng sinh thứ hai, Mẫu Liễu Hạnh trở thành con của ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc, quê ở Nam Định, cách quê cũ khoảng 7 km. Sau khi sinh được bà, ông Lê Thái Công nhìn mặt con thấy nét mặt giống như tiên nữ bưng khay rượu vào tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng nên đặt tên con là Lệ Giang Tiên.
Lần này, công chúa Liễu Hạnh kết hôn với ông Trần Đạo Lăng, sinh được con trai tên Nhân và con gái tên Hoa. Trong lúc cả nhà đang yên ấm hạnh phúc thì bà đột ngột qua đời, năm đó bà mới 21 tuổi vào năm Đinh Sửu (1577), hoàn toàn không bệnh tật gì.
Giáng sinh thứ ba
Tương truyền, vì lòng trung nghĩa với chồng con nơi trần gian, năm Canh Dần (1650), Thánh Mẫu Liễu Hạnh tái sinh tại đất Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 10 tháng 10. , gặp lại anh Trần Đạo lúc này đã đầu thai thành Mai Thanh Lâm, sinh được một người con trai.
Bà mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân (1668). Lúc đó cô mới 18 tuổi. Dòng dõi thứ ba của bà là vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tình lầm than, cơ cực. Cô đi khắp nơi để cứu nhân loại và trừng trị kẻ ác. Vì vậy, nhân dân đã lập đền thờ tại nơi bà giáng trần (đền Sòng, Thanh Hóa).
Khi xuống trần gian, nàng lấy hiệu là Liễu Hạnh, ngao du sơn thủy, thưởng ngoạn cảnh đẹp non nước hùng vĩ và gặp gỡ, giao du với nhiều người, đặc biệt là các tao nhân khách (trong đó có Phùng Khắc). Chờ vậy mà cuộc họp này để lại dấu tích là phủ Tây Hồ).
Cũng có câu chuyện kể rằng vào thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433), Liễu Hạnh mở một cửa hàng bán đồ cho khách bộ hành dưới chân Đèo Ngang. Lời đồn về một cô gái xinh đẹp bán hàng ở nơi hấp dẫn đó khiến nhiều người tò mò, kể cả hoàng tử đương thời. Người này đến quán nước với ý đồ xấu xa nên bị Liễu Hạnh làm cho hóa điên.
Nhà vua, với sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương Tát Đỏa, đã lừa được Tiên Thiên. Họ đem Thần tiên đến kinh sách để xin thứ tội. Sau khi nghe Tiên nữ kể lại hành vi của Thái tử, nhà vua cảm thấy xấu hổ nên đã tha mạng cho nàng, sau đó nói lời cảm ơn và chúc Tiên nữ gặp nhiều may mắn.
Trong Đạo Mẫu, Bà Chúa Liễu Hạnh được suy tôn là Thánh Mẫu, là hóa thân của Đệ nhất Thánh Mẫu, được thờ ở trung tâm Tam phủ Thánh Mẫu. Trong tín ngưỡng dân gian nói chung, Bà là một trong Tứ bất tử, họ là những người sinh ra trong thời buổi hoạn nạn, sự xuất hiện của họ như một nơi nương tựa cho những người nghèo khó về tinh thần.
Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh được coi là một dấu ấn của đạo Mẫu và chế độ Mẫu hệ, qua đó cho chúng ta thấy vị trí quan trọng của người phụ nữ trong tâm thức người Việt Nam.
[/box]
#Đạo #mẫu #và #Tín #ngưỡng #thờ #Mẫu #là #gì #và #câu #chuyện #mẫu #Liễu #Hạnh
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Đạo mẫu và Tôn giáo thờ Mẫu là gì và câu chuyện mẫu Liễu Hạnh bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Kiến thức chung
#Đạo #mẫu #và #Tín #ngưỡng #thờ #Mẫu #là #gì #và #câu #chuyện #mẫu #Liễu #Hạnh
Trả lời