Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
1. Mở bài
– Giới thiệu đề tài nghị luận: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Nêu cảm tưởng chung nhất của bản thân.
2. Thân bài
a. Một số nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:
– Sinh năm 1822 mất 1888.
– Quê quán: Gia Định (nay thuộc Hồ Chí Minh)
– 1833, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ăn học.
– Năm 1849, mẹ ông mất, về lại Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị ốm nặng và vì quá tiếc thương cho mẹ nên bị mù cả hai mắt. Từ đó ông chuyển sang học nghề thuốc.
– Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc.
b. Sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu:
– Cuộc đời đã tác động sâu rộng tới sáng tác Nguyễn Đình Chiểu.
– Quan niệm thơ văn:
+ Ông coi văn học là vũ khí tranh đấu.
+ Ông đề cao và ca tụng những người nông dân, nghĩa sĩ.
+ Phê phán xã hội phong kiến.
+ Đau xót cho và tự hào cho sự hi sinh của người nghĩa sĩ quả cảm.
– Các tác phẩm chính: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Truyện Lục Vân Tiên…
c. Trị giá thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang lại:
– Ông đã để lại một khối lượng kho tàng văn học đồ sổ.
– Kim chỉ nam cho quan niệm: văn học là vũ khí đánh giặc.
– Các sáng tác phong phú, ca tụng người nông dân yêu nước, sự hi sinh của họ.
– Niềm tự hào và tình yêu với con người, quê hương, tổ quốc.
3. Kết bài: Nêu xúc cảm của em về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
>> Dàn ý phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 1
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có thi sĩ nào vừa tài năng vừa đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một thi sĩ lớn của dân tộc ta với những áng văn học bất hủ mang đậm trị giá văn học Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu (hay được gọi là cụ Đồ Chiểu) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất vào năm 1888. Tuy là một thi sĩ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời ông lại lắm những gian truân, long đong xuôi ngược. Là con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ nên từ nhỏ cuộc sống của ông đã khốn cùng, vất vả. Năm lên 11, lúc Nam Kì bị chiếm, cha gửi ông ra Huế ở nhờ nhà người bạn. Sau 8 năm, theo học tại nơi đây, ông trở lại miền Nam chăm lo đèn sách chờ ngày thi hương. Năm 1843, ông đỗ tú tài lúc đó ông mới 21 tuổi. Năm 1846,ông lại trở lại Huế ôn thi hội. Ba năm sau đó, vừa đúng lúc ngày thi kề cận thì cũng là lúc ông thu được tin mẹ mình từ trần. Ông tức tốc về Nam chịu tang mẹ, bỏ lỡ dang việc thi cử. Trên đường về quê, ông bị ốm. Vì đường xá xa xôi, tiết trời oi bức, bệnh ông càng trở nặng, lại thêm nỗi đau vừa mất mẹ, thương khóc quá nhiều nên chẳng may ông bị mù cả hai mắt. Thế là giấc mộng công danh đã ko thành, thân lại còn mang khuyết thiếu. Những tưởng tương lai, cuộc đời ông tới đây là chấm hết, cánh cửa cuộc đời như khép lại. Thế nhưng, ông quyết ko đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của bản thân, ông đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian nan biến đau thương thành động lực tiếp tục phấn đấu, vươn lên làm chủ số phận mình. Sau đó, ông về Gia Định vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người dân.
Cuộc đời ông là một tấm gương sáng ngời về ý thức yêu nước, sự quật cường trước quân thù. Tuy ko nhìn thấy ánh sáng, ko thể trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường nhưng ông vẫn luôn thảo luận việc nước với Đốc binh và trao đổi thư tín với Trương Định. Lúc tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn trao đổi với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác những bài thơ phục vụ cho kháng chiến, động viên ý thức tranh đấu của các anh chiến sĩ quân nhân ngoài sa trường. Mặc dù, nhiều lần ông bị bọn thực dân Pháp dụ dỗ sắm chuộc nhưng ông vẫn luôn cự tuyệt và tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến.
Trước lúc ra đi, ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm nổi trội, mang đậm tư tưởng đạo lí, bản sắc văn hóa dân tộc. Các tác phẩm tiêu biểu như là: “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,… đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày hôm nay. Đặc thù nhất là tác phẩm “Lục Vân Tiên” là một tuyệt tác đã để lại nhiều ấn tượng cho người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy truân chuyên, sóng gió của chàng Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ngoài đời thực. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật từ chính tới phụ, phản diện hay chính diện trong truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, manh những màu sắc rất riêng lẻ và nhiều chủng loại. Các tác phẩm của ông đều truyền tới cho đọc giả những trị giá đạo đức, đạo lí làm người trong cuộc sống.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ luôn là một thi sĩ lớn của dân tộc ta và những áng thơ của ông luôn mang một tầm tác động nhất mực tới người dân Việt. Ông và những tuyệt tác của ông sẽ luôn sống mãi với thời kì trong trái tim mỗi người Việt Nam.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 2
Có nhẽ người nào người nào trong chúng ta cũng đều từng nghe câu nói:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền ko khẳm
Đâm mấy thắng gian bút chẳng tà.”
Vâng đó chính là quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu-một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học khổng lồ của ông đã để lại dấu ấn và những bài học thâm thúy cho mai hậu.
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ(1882-1888). Ông sinh tại quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm 1833 ông được cha đưa ra Huế học, nhờ đó ông đã có điều kiện tiếp thu một cách bài bản tri thức. Tới năm 1849 ông sẵn sàng ra thi tiếp tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về vì quê tiếc thương người mẹ quá cố nhưng khóc thương dẫn tới đôi mắt ông bị mù. Qua đây có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo mênh mông của Nguyễn Đình Chiểu, tuy bị mù những trái tim nhân đạo chính là đôi mắt sáng của các sáng tác của ông. Sau đó ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng với nhân dân, chính vì thế ông đã có những tình cảm sâu nặng và tha thiết gắn bó với đời sống của những người dân manh lệ, nên những trang văn, trang thơ của ông thấm đẫm ý thức nhân văn, nhân đạo cao cả bằng việc ngợi ca và trân trọng sức mạnh của người nông dân và xót thương cho sự hi sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì lúc giặc Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ ko hợp tác, rầu rĩ đau ốm ông đã từ trần.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều ngập tràn một tấm lòng yêu nước tha thiết, bỏng cháy gắn với những niềm căm thù về cơ chế cũ. Ông là thi sĩ có quan niệm văn học nhất quán. Ông chủ trương dùng văn học biểu thị đạo lý và tranh đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bình, rành mạch, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim táo tác bay.”
Những câu thơ ngập tràn một sự xót xa thâm thúy tới quặn thắt cho số phận của những người thường dân tội nghiệp. Đồng thời bộc bạch lòng căm thù xót xa với quân địch xâm lược đã giày xéo lên mảnh đất của dân tộc. nhưng cao hơn cả tấm lòng nhân đạo, là một sự khắc khoải khôn nguôi:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để thường dân mắc nạn này?”
Ko chỉ vậy, qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ông còn bộc bạch quan niệm của mình về những đạo lí tốt đẹp của dân tộc: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình mến thương, nuôi nấng, đùm bọc những người gặp trắc trở, thiến nạn. Đề cao ý thức nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Trình bày khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bình và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Các ý kiến này đã được trình bày rất rõ trong các truyện như Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu rất khổng lồ. nhưng có thể thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nổi trội một số nét sau: Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng tiếng nói nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, làm cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Ông là thi sĩ trước tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người người hùng Nam Bộ tiền phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ thủ cựu. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng đó mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của tổ quốc, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn học sử thi mới sau này.
Tương tự có thể thấy được rằng, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân. Ông ko chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, người chiến sĩ yêu nước nhưng còn là một cây bút có công lớn trong việc viết văn tuyên truyền động viên tranh đấu.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Ông là một con người tiêu biểu cho tư cách Việt Nam trong thời kỳ tổ quốc đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng lớn lao. Tổ quốc bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bị thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thử thách nghiệt ngã đó đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy thật phu hữu trách”, và ông đã chọn trục đường sống, tranh đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”.
Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đặm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân ko màng lợi danh. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, ko hám lợi, ko sợ uy vũ, ko khuất phục cường quyền.
Với tất cả vai trò xã hội và sứ mệnh của con người nhưng Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Thi sĩ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước cho tới cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng tới tuyệt vời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Tư cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người đó ko vì thế nhưng buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là tư cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Thi sĩ mù lòa đó là một trong những người trước tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.
Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và phá hủy một cách man rợ những di sản văn hóa của nhân dân ta:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Trong hoàn cảnh tổ quốc lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng quân địch, phản bội tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn ươn hèn và phản văn hóa đó:
“Dù đui mù nhưng giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha ko thờ.
Dù đui mù nhưng khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
Với ý kiến xem ngòi bút là vũ khí tranh đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn học như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm xáo trộn trắng đen. Cụ viết:
“Thây nay cũng nhóm văn học
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”.
Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống vững bền trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật người hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách người hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bình xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” đó được trình bày qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp tới nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời kì khá dài từ đầu thế kỷ XX tới nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga sớm trình bày trên sân khấu ca kịch cải lương lúc bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện. Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào nhưng tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức vạn thọ bền trong đời sống văn hóa của nhân dân tương tự.
Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều mấu chốt của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và tư cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết nhưng được truyền thụ tới ngày nay, trong đó thi sĩ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, ko màng lợi danh, suốt đời chăm lo tập huấn thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Từ lò tập huấn Hòa Hưng của Võ Trường Toản nhưng thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước tới thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là thành phầm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi tới mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình.
Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện ý thức để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” nhưng sinh tiền cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX tới các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy tâm huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu.
Tư cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có tác động rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất người hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật người hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói tới truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau này những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa đó.
Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu thâm thúy y lý phương Đông và y lý Việt Nam cả về y thuật và y đức nhưng y đức của cụ chính là đạo cứu người trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là quyển “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, một quyển sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và mến thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”
Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật đó là kết tinh nghề thuốc trong hàng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước đó có chiều sâu tư nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy nghìn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một trục đường thích hợp cho những con người yêu nước tầm thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết ko phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, nhưng chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất thân thiện với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn xin cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho ko”.
Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui mù đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để ko phải đem nghề y ra phục vụ cho quân địch của Tổ quốc và nhân dân. Tư cách cao thượng đó của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn thâm thúy trong các thế hệ lương y sau này. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục tiêu từ thiện chớ ko phải chỉ có kinh doanh trên sự cực khổ của đồng bào.
Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học ko biết mỏi mệt vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ ko chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ.
Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và tăng trưởng. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và thông minh văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một tư cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân.
Xem thêm: Tác giả – Tác phẩm: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Hoàn cảnh sáng tác, Tóm tắt, Ý nghĩa, Trị giá nghệ thuật)
…/…
Từ bài văn mẫu Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nhưng Trường THPT Trần Hưng Đạo đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng tri thức đã học, liên kết với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 12 hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất) ” state=”close”]
Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất)
Hình Ảnh về: Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất)
Video về: Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất)
Wiki về Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất)
Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất) -
Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
1. Mở bài
– Giới thiệu đề tài nghị luận: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Nêu cảm tưởng chung nhất của bản thân.
2. Thân bài
a. Một số nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:
– Sinh năm 1822 mất 1888.
– Quê quán: Gia Định (nay thuộc Hồ Chí Minh)
– 1833, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ăn học.
– Năm 1849, mẹ ông mất, về lại Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị ốm nặng và vì quá tiếc thương cho mẹ nên bị mù cả hai mắt. Từ đó ông chuyển sang học nghề thuốc.
– Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc.
b. Sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu:
– Cuộc đời đã tác động sâu rộng tới sáng tác Nguyễn Đình Chiểu.
– Quan niệm thơ văn:
+ Ông coi văn học là vũ khí tranh đấu.
+ Ông đề cao và ca tụng những người nông dân, nghĩa sĩ.
+ Phê phán xã hội phong kiến.
+ Đau xót cho và tự hào cho sự hi sinh của người nghĩa sĩ quả cảm.
– Các tác phẩm chính: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Truyện Lục Vân Tiên…
c. Trị giá thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang lại:
– Ông đã để lại một khối lượng kho tàng văn học đồ sổ.
– Kim chỉ nam cho quan niệm: văn học là vũ khí đánh giặc.
– Các sáng tác phong phú, ca tụng người nông dân yêu nước, sự hi sinh của họ.
– Niềm tự hào và tình yêu với con người, quê hương, tổ quốc.
3. Kết bài: Nêu xúc cảm của em về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
>> Dàn ý phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 1
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có thi sĩ nào vừa tài năng vừa đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một thi sĩ lớn của dân tộc ta với những áng văn học bất hủ mang đậm trị giá văn học Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu (hay được gọi là cụ Đồ Chiểu) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất vào năm 1888. Tuy là một thi sĩ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời ông lại lắm những gian truân, long đong xuôi ngược. Là con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ nên từ nhỏ cuộc sống của ông đã khốn cùng, vất vả. Năm lên 11, lúc Nam Kì bị chiếm, cha gửi ông ra Huế ở nhờ nhà người bạn. Sau 8 năm, theo học tại nơi đây, ông trở lại miền Nam chăm lo đèn sách chờ ngày thi hương. Năm 1843, ông đỗ tú tài lúc đó ông mới 21 tuổi. Năm 1846,ông lại trở lại Huế ôn thi hội. Ba năm sau đó, vừa đúng lúc ngày thi kề cận thì cũng là lúc ông thu được tin mẹ mình từ trần. Ông tức tốc về Nam chịu tang mẹ, bỏ lỡ dang việc thi cử. Trên đường về quê, ông bị ốm. Vì đường xá xa xôi, tiết trời oi bức, bệnh ông càng trở nặng, lại thêm nỗi đau vừa mất mẹ, thương khóc quá nhiều nên chẳng may ông bị mù cả hai mắt. Thế là giấc mộng công danh đã ko thành, thân lại còn mang khuyết thiếu. Những tưởng tương lai, cuộc đời ông tới đây là chấm hết, cánh cửa cuộc đời như khép lại. Thế nhưng, ông quyết ko đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của bản thân, ông đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian nan biến đau thương thành động lực tiếp tục phấn đấu, vươn lên làm chủ số phận mình. Sau đó, ông về Gia Định vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người dân.
Cuộc đời ông là một tấm gương sáng ngời về ý thức yêu nước, sự quật cường trước quân thù. Tuy ko nhìn thấy ánh sáng, ko thể trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường nhưng ông vẫn luôn thảo luận việc nước với Đốc binh và trao đổi thư tín với Trương Định. Lúc tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn trao đổi với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác những bài thơ phục vụ cho kháng chiến, động viên ý thức tranh đấu của các anh chiến sĩ quân nhân ngoài sa trường. Mặc dù, nhiều lần ông bị bọn thực dân Pháp dụ dỗ sắm chuộc nhưng ông vẫn luôn cự tuyệt và tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến.
Trước lúc ra đi, ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm nổi trội, mang đậm tư tưởng đạo lí, bản sắc văn hóa dân tộc. Các tác phẩm tiêu biểu như là: “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,… đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày hôm nay. Đặc thù nhất là tác phẩm “Lục Vân Tiên” là một tuyệt tác đã để lại nhiều ấn tượng cho người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy truân chuyên, sóng gió của chàng Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ngoài đời thực. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật từ chính tới phụ, phản diện hay chính diện trong truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, manh những màu sắc rất riêng lẻ và nhiều chủng loại. Các tác phẩm của ông đều truyền tới cho đọc giả những trị giá đạo đức, đạo lí làm người trong cuộc sống.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ luôn là một thi sĩ lớn của dân tộc ta và những áng thơ của ông luôn mang một tầm tác động nhất mực tới người dân Việt. Ông và những tuyệt tác của ông sẽ luôn sống mãi với thời kì trong trái tim mỗi người Việt Nam.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 2
Có nhẽ người nào người nào trong chúng ta cũng đều từng nghe câu nói:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền ko khẳm
Đâm mấy thắng gian bút chẳng tà.”
Vâng đó chính là quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu-một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học khổng lồ của ông đã để lại dấu ấn và những bài học thâm thúy cho mai hậu.
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ(1882-1888). Ông sinh tại quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm 1833 ông được cha đưa ra Huế học, nhờ đó ông đã có điều kiện tiếp thu một cách bài bản tri thức. Tới năm 1849 ông sẵn sàng ra thi tiếp tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về vì quê tiếc thương người mẹ quá cố nhưng khóc thương dẫn tới đôi mắt ông bị mù. Qua đây có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo mênh mông của Nguyễn Đình Chiểu, tuy bị mù những trái tim nhân đạo chính là đôi mắt sáng của các sáng tác của ông. Sau đó ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng với nhân dân, chính vì thế ông đã có những tình cảm sâu nặng và tha thiết gắn bó với đời sống của những người dân manh lệ, nên những trang văn, trang thơ của ông thấm đẫm ý thức nhân văn, nhân đạo cao cả bằng việc ngợi ca và trân trọng sức mạnh của người nông dân và xót thương cho sự hi sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì lúc giặc Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ ko hợp tác, rầu rĩ đau ốm ông đã từ trần.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều ngập tràn một tấm lòng yêu nước tha thiết, bỏng cháy gắn với những niềm căm thù về cơ chế cũ. Ông là thi sĩ có quan niệm văn học nhất quán. Ông chủ trương dùng văn học biểu thị đạo lý và tranh đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bình, rành mạch, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim táo tác bay.”
Những câu thơ ngập tràn một sự xót xa thâm thúy tới quặn thắt cho số phận của những người thường dân tội nghiệp. Đồng thời bộc bạch lòng căm thù xót xa với quân địch xâm lược đã giày xéo lên mảnh đất của dân tộc. nhưng cao hơn cả tấm lòng nhân đạo, là một sự khắc khoải khôn nguôi:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để thường dân mắc nạn này?”
Ko chỉ vậy, qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ông còn bộc bạch quan niệm của mình về những đạo lí tốt đẹp của dân tộc: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình mến thương, nuôi nấng, đùm bọc những người gặp trắc trở, thiến nạn. Đề cao ý thức nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Trình bày khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bình và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Các ý kiến này đã được trình bày rất rõ trong các truyện như Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu rất khổng lồ. nhưng có thể thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nổi trội một số nét sau: Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng tiếng nói nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, làm cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Ông là thi sĩ trước tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người người hùng Nam Bộ tiền phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ thủ cựu. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng đó mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của tổ quốc, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn học sử thi mới sau này.
Tương tự có thể thấy được rằng, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân. Ông ko chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, người chiến sĩ yêu nước nhưng còn là một cây bút có công lớn trong việc viết văn tuyên truyền động viên tranh đấu.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Ông là một con người tiêu biểu cho tư cách Việt Nam trong thời kỳ tổ quốc đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng lớn lao. Tổ quốc bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bị thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thử thách nghiệt ngã đó đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy thật phu hữu trách”, và ông đã chọn trục đường sống, tranh đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”.
Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đặm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân ko màng lợi danh. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, ko hám lợi, ko sợ uy vũ, ko khuất phục cường quyền.
Với tất cả vai trò xã hội và sứ mệnh của con người nhưng Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Thi sĩ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước cho tới cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng tới tuyệt vời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Tư cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người đó ko vì thế nhưng buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là tư cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Thi sĩ mù lòa đó là một trong những người trước tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.
Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và phá hủy một cách man rợ những di sản văn hóa của nhân dân ta:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Trong hoàn cảnh tổ quốc lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng quân địch, phản bội tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn ươn hèn và phản văn hóa đó:
“Dù đui mù nhưng giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha ko thờ.
Dù đui mù nhưng khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
Với ý kiến xem ngòi bút là vũ khí tranh đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn học như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm xáo trộn trắng đen. Cụ viết:
“Thây nay cũng nhóm văn học
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”.
Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống vững bền trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật người hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách người hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bình xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” đó được trình bày qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp tới nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời kì khá dài từ đầu thế kỷ XX tới nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga sớm trình bày trên sân khấu ca kịch cải lương lúc bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện. Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào nhưng tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức vạn thọ bền trong đời sống văn hóa của nhân dân tương tự.
Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều mấu chốt của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và tư cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết nhưng được truyền thụ tới ngày nay, trong đó thi sĩ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, ko màng lợi danh, suốt đời chăm lo tập huấn thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Từ lò tập huấn Hòa Hưng của Võ Trường Toản nhưng thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước tới thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là thành phầm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi tới mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình.
Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện ý thức để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” nhưng sinh tiền cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX tới các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy tâm huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu.
Tư cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có tác động rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất người hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật người hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói tới truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau này những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa đó.
Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu thâm thúy y lý phương Đông và y lý Việt Nam cả về y thuật và y đức nhưng y đức của cụ chính là đạo cứu người trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là quyển “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, một quyển sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và mến thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”
Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật đó là kết tinh nghề thuốc trong hàng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước đó có chiều sâu tư nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy nghìn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một trục đường thích hợp cho những con người yêu nước tầm thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết ko phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, nhưng chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất thân thiện với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn xin cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho ko”.
Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui mù đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để ko phải đem nghề y ra phục vụ cho quân địch của Tổ quốc và nhân dân. Tư cách cao thượng đó của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn thâm thúy trong các thế hệ lương y sau này. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục tiêu từ thiện chớ ko phải chỉ có kinh doanh trên sự cực khổ của đồng bào.
Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học ko biết mỏi mệt vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ ko chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ.
Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và tăng trưởng. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và thông minh văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một tư cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân.
Xem thêm: Tác giả – Tác phẩm: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Hoàn cảnh sáng tác, Tóm tắt, Ý nghĩa, Trị giá nghệ thuật)
…/…
Từ bài văn mẫu Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nhưng Trường THPT Trần Hưng Đạo đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng tri thức đã học, liên kết với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 12 hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” color: #0000ff;”>Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
1. Mở bài
– Giới thiệu đề tài nghị luận: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Nêu cảm nghĩ chung nhất của bản thân.
2. Thân bài
a. Một số nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:
– Sinh năm 1822 mất 1888.
– Quê quán: Gia Định (nay thuộc Hồ Chí Minh)
– 1833, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ăn học.
– Năm 1849, mẹ ông mất, về lại Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị ốm nặng và vì quá thương tiếc cho mẹ nên bị mù cả hai mắt. Từ đó ông chuyển sang học nghề thuốc.
– Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc.
b. Sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu:
– Cuộc đời đã ảnh hưởng sâu rộng đến sáng tác Nguyễn Đình Chiểu.
– Quan niệm thơ văn:
+ Ông coi văn chương là vũ khí chiến đấu.
+ Ông đề cao và ca ngợi những người nông dân, nghĩa sĩ.
+ Phê phán xã hội phong kiến.
+ Đau xót cho và tự hào cho sự hi sinh của người nghĩa sĩ anh dũng.
– Các tác phẩm chính: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Truyện Lục Vân Tiên…
c. Giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang lại:
– Ông đã để lại một khối lượng kho tàng văn học đồ sổ.
– Kim chỉ nam cho quan niệm: văn chương là vũ khí đánh giặc.
– Các sáng tác phong phú, ca ngợi người nông dân yêu nước, sự hi sinh của họ.
– Niềm tự hào và tình yêu với con người, quê hương, đất nước.
3. Kết bài: Nêu cảm xúc của em về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
>> Dàn ý phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 1
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ nào vừa tài năng vừa đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một nhà thơ lớn của dân tộc ta với những áng văn chương bất hủ mang đậm giá trị văn học Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu (hay được gọi là cụ Đồ Chiểu) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất vào năm 1888. Tuy là một nhà thơ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời ông lại lắm những gian truân, lận đận ngược xuôi. Là con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ nên từ bé cuộc sống của ông đã cơ cực, vất vả. Năm lên 11, khi Nam Kì bị chiếm, cha gửi ông ra Huế ở nhờ nhà người bạn. Sau 8 năm, theo học tại nơi đây, ông trở lại miền Nam chăm lo đèn sách chờ ngày thi hương. Năm 1843, ông đỗ tú tài khi ấy ông mới 21 tuổi. Năm 1846,ông lại quay về Huế ôn thi hội. Ba năm sau đó, vừa đúng lúc ngày thi cận kề thì cũng là lúc ông nhận được tin mẹ mình qua đời. Ông lập tức về Nam chịu tang mẹ, bỏ dở dang việc thi cử. Trên đường về quê, ông bị ốm. Vì đường xá xa xôi, tiết trời oi bức, bệnh ông càng trở nặng, lại thêm nỗi đau vừa mất mẹ, thương khóc quá nhiều nên chẳng may ông bị mù cả hai mắt. Thế là giấc mộng công danh đã không thành, thân lại còn mang khiếm khuyết. Những tưởng tương lai, cuộc đời ông đến đây là chấm hết, cánh cửa cuộc đời như khép lại. Thế nhưng, ông quyết không đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của bản thân, ông đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ biến đau thương thành động lực tiếp tục phấn đấu, vươn lên làm chủ số phận mình. Sau đó, ông về Gia Định vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người dân.
Cuộc đời ông là một tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước, sự bất khuất trước quân thù. Tuy không nhìn thấy ánh sáng, không thể trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường nhưng ông vẫn luôn bàn bạc việc nước với Đốc binh và trao đổi thư tín với Trương Định. Khi tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn trao đổi với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác những bài thơ phục vụ cho kháng chiến, động viên tinh thần chiến đấu của các anh chiến sĩ bộ đội ngoài sa trường. Mặc dù, nhiều lần ông bị bọn thực dân Pháp dụ dỗ mua chuộc nhưng ông vẫn luôn cự tuyệt và tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến.
Trước khi ra đi, ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm nổi bật, mang đậm tư tưởng đạo lí, bản sắc văn hóa dân tộc. Các tác phẩm tiêu biểu như là: “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,… đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày hôm nay. Đặc biệt nhất là tác phẩm “Lục Vân Tiên” là một tuyệt tác đã để lại nhiều ấn tượng cho người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy truân chuyên, sóng gió của chàng Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ngoài đời thực. Dưới ngòi bút tài ba của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật từ chính đến phụ, phản diện hay chính diện trong truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, manh những màu sắc rất riêng biệt và đa dạng. Các tác phẩm của ông đều truyền đến cho đọc giả những giá trị đạo đức, đạo lí làm người trong cuộc sống.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ luôn là một nhà thơ lớn của dân tộc ta và những áng thơ của ông luôn mang một tầm ảnh hưởng nhất định đến người dân Việt. Ông và những tuyệt tác của ông sẽ luôn sống mãi với thời gian trong trái tim mỗi người Việt Nam.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 2
Có lẽ ai ai trong chúng ta cũng đều từng nghe câu nói:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thắng gian bút chẳng tà.”
Vâng đó chính là quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu-một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học đồ sộ của ông đã để lại dấu ấn và những bài học sâu sắc cho mai hậu.
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ(1882-1888). Ông sinh tại quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm 1833 ông được cha đưa ra Huế học, nhờ đó ông đã có điều kiện tiếp thu một cách bài bản kiến thức. Đến năm 1849 ông chuẩn bị ra thi tiếp tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về vì quê thương tiếc người mẹ quá cố mà khóc thương dẫn đến đôi mắt ông bị mù. Qua đây có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo mênh mông của Nguyễn Đình Chiểu, tuy bị mù những trái tim nhân đạo chính là đôi mắt sáng của các sáng tác của ông. Sau đó ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng với nhân dân, chính vì thế ông đã có những tình cảm sâu nặng và tha thiết gắn bó với đời sống của những người dân manh lệ, nên những trang văn, trang thơ của ông thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả bằng việc ngợi ca và trân trọng sức mạnh của người nông dân và xót thương cho sự hi sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì khi giặc Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ không hợp tác, buồn rầu đau ốm ông đã qua đời.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều chan chứa một tấm lòng yêu nước tha thiết, bỏng cháy gắn với những niềm căm phẫn về chế độ cũ. Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.”
Những câu thơ chan chứa một sự xót xa sâu sắc đến quặn thắt cho số phận của những người dân đen tội nghiệp. Đồng thời bày tỏ lòng căm phẫn xót xa với kẻ thù xâm lược đã giày xéo lên mảnh đất của dân tộc. nhưng cao hơn cả tấm lòng nhân đạo, là một sự khắc khoải khôn nguôi:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Không chỉ vậy, qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ông còn bày tỏ quan niệm của mình về những đạo lí tốt đẹp của dân tộc: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Các quan điểm này đã được thể hiện rất rõ trong các truyện như Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu rất đồ sộ. nhưng có thể thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nổi bật một số nét sau: Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này.
Như vậy có thể thấy được rằng, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, người chiến sĩ yêu nước mà còn là một cây bút có công lớn trong việc viết văn tuyên truyền cổ vũ chiến đấu.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Ông là một con người tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam trong thời kỳ đất nước đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng vĩ đại. Đất nước bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bị thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thách thức nghiệt ngã ấy đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy thật phu hữu trách”, và ông đã chọn con đường sống, chiến đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”.
Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đậm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân không màng danh lợi. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền.
Với tất cả vai trò xã hội và sứ mạng của con người mà Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước cho đến cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng đến tuyệt vời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Nhà thơ mù lòa ấy là một trong những người đầu tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.
Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và hủy hoại một cách dã man những di sản văn hóa của nhân dân ta:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng kẻ thù, phản bội đất nước. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn đê hèn và phản văn hóa ấy:
“Dù đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
Với quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn chương như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm đảo lộn trắng đen. Cụ viết:
“Thây nay cũng nhóm văn chương
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”.
Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật anh hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” ấy được thể hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp đến nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời gian khá dài từ đầu thế kỷ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga sớm thể hiện trên sân khấu ca kịch cải lương khi bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện. Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào mà tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức sống lâu bền trong đời sống văn hóa của nhân dân như vậy.
Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết mà được truyền thụ đến ngày nay, trong đó nhà thơ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, không màng danh lợi, suốt đời chăm lo đào tạo thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Từ lò đào tạo Hòa Hưng của Võ Trường Toản mà thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước đến thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là sản phẩm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi đến mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình.
Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện tinh thần để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” mà sinh thời cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX đến các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy nhiệt huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu.
Nhân cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất anh hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật anh hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói đến truyền thống văn hóa Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau này những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa ấy.
Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lý phương Đông và y lý Việt Nam cả về y thuật và y đức mà y đức của cụ chính là đạo cứu người trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là quyển “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, một quyển sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và yêu thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”
Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hàng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, mà chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất gần gũi với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn mày cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.
Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để không phải đem nghề y ra phục vụ cho kẻ thù của Tổ quốc và nhân dân. Nhân cách cao thượng ấy của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn sâu sắc trong các thế hệ lương y sau này. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục đích từ thiện chớ không phải chỉ có kinh doanh trên sự đau khổ của đồng bào.
Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học không biết mệt mỏi vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ không chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ.
Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và phát triển. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và sáng tạo văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một nhân cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân.
Xem thêm: Tác giả – Tác phẩm: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Hoàn cảnh sáng tác, Tóm tắt, Ý nghĩa, Giá trị nghệ thuật)
…/…
Từ bài văn mẫu Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu mà Trường THPT Trần Hưng Đạo đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng kiến thức đã học, kết hợp với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 12 hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[/box]
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
[rule_3_plain]
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Xem nhanh nội dung1 Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu2 Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 13 Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 24 Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
1. Mở bài
– Giới thiệu đề tài nghị luận: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Nêu cảm tưởng chung nhất của bản thân.
2. Thân bài
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
a. Một số nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:
– Sinh năm 1822 mất 1888.
– Quê quán: Gia Định (nay thuộc Hồ Chí Minh)
– 1833, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ăn học.
– Năm 1849, mẹ ông mất, về lại Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị ốm nặng và vì quá tiếc thương cho mẹ nên bị mù cả hai mắt. Từ đó ông chuyển sang học nghề thuốc.
– Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc.
b. Sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu:
– Cuộc đời đã tác động sâu rộng tới sáng tác Nguyễn Đình Chiểu.
– Quan niệm thơ văn:
+ Ông coi văn học là vũ khí tranh đấu.
+ Ông đề cao và ca tụng những người nông dân, nghĩa sĩ.
+ Phê phán xã hội phong kiến.
+ Đau xót cho và tự hào cho sự hi sinh của người nghĩa sĩ quả cảm.
– Các tác phẩm chính: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Truyện Lục Vân Tiên…
c. Trị giá thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang lại:
– Ông đã để lại một khối lượng kho tàng văn học đồ sổ.
– Kim chỉ nam cho quan niệm: văn học là vũ khí đánh giặc.
– Các sáng tác phong phú, ca tụng người nông dân yêu nước, sự hi sinh của họ.
– Niềm tự hào và tình yêu với con người, quê hương, tổ quốc.
3. Kết bài: Nêu xúc cảm của em về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
>> Dàn ý phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 1
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có thi sĩ nào vừa tài năng vừa đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một thi sĩ lớn của dân tộc ta với những áng văn học bất hủ mang đậm trị giá văn học Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu (hay được gọi là cụ Đồ Chiểu) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất vào năm 1888. Tuy là một thi sĩ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời ông lại lắm những gian truân, long đong xuôi ngược. Là con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ nên từ nhỏ cuộc sống của ông đã khốn cùng, vất vả. Năm lên 11, lúc Nam Kì bị chiếm, cha gửi ông ra Huế ở nhờ nhà người bạn. Sau 8 năm, theo học tại nơi đây, ông trở lại miền Nam chăm lo đèn sách chờ ngày thi hương. Năm 1843, ông đỗ tú tài lúc đó ông mới 21 tuổi. Năm 1846,ông lại trở lại Huế ôn thi hội. Ba năm sau đó, vừa đúng lúc ngày thi kề cận thì cũng là lúc ông thu được tin mẹ mình từ trần. Ông tức tốc về Nam chịu tang mẹ, bỏ lỡ dang việc thi cử. Trên đường về quê, ông bị ốm. Vì đường xá xa xôi, tiết trời oi bức, bệnh ông càng trở nặng, lại thêm nỗi đau vừa mất mẹ, thương khóc quá nhiều nên chẳng may ông bị mù cả hai mắt. Thế là giấc mộng công danh đã ko thành, thân lại còn mang khuyết thiếu. Những tưởng tương lai, cuộc đời ông tới đây là chấm hết, cánh cửa cuộc đời như khép lại. Thế nhưng, ông quyết ko đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của bản thân, ông đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian nan biến đau thương thành động lực tiếp tục phấn đấu, vươn lên làm chủ số phận mình. Sau đó, ông về Gia Định vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người dân.
Cuộc đời ông là một tấm gương sáng ngời về ý thức yêu nước, sự quật cường trước quân thù. Tuy ko nhìn thấy ánh sáng, ko thể trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường nhưng ông vẫn luôn thảo luận việc nước với Đốc binh và trao đổi thư tín với Trương Định. Lúc tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn trao đổi với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác những bài thơ phục vụ cho kháng chiến, động viên ý thức tranh đấu của các anh chiến sĩ quân nhân ngoài sa trường. Mặc dù, nhiều lần ông bị bọn thực dân Pháp dụ dỗ sắm chuộc nhưng ông vẫn luôn cự tuyệt và tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến.
Trước lúc ra đi, ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm nổi trội, mang đậm tư tưởng đạo lí, bản sắc văn hóa dân tộc. Các tác phẩm tiêu biểu như là: “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,… đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày hôm nay. Đặc thù nhất là tác phẩm “Lục Vân Tiên” là một tuyệt tác đã để lại nhiều ấn tượng cho người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy truân chuyên, sóng gió của chàng Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ngoài đời thực. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật từ chính tới phụ, phản diện hay chính diện trong truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, manh những màu sắc rất riêng lẻ và nhiều chủng loại. Các tác phẩm của ông đều truyền tới cho đọc giả những trị giá đạo đức, đạo lí làm người trong cuộc sống.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ luôn là một thi sĩ lớn của dân tộc ta và những áng thơ của ông luôn mang một tầm tác động nhất mực tới người dân Việt. Ông và những tuyệt tác của ông sẽ luôn sống mãi với thời kì trong trái tim mỗi người Việt Nam.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 2
Có nhẽ người nào người nào trong chúng ta cũng đều từng nghe câu nói:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền ko khẳm
Đâm mấy thắng gian bút chẳng tà.”
Vâng đó chính là quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu-một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học khổng lồ của ông đã để lại dấu ấn và những bài học thâm thúy cho mai hậu.
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ(1882-1888). Ông sinh tại quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm 1833 ông được cha đưa ra Huế học, nhờ đó ông đã có điều kiện tiếp thu một cách bài bản tri thức. Tới năm 1849 ông sẵn sàng ra thi tiếp tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về vì quê tiếc thương người mẹ quá cố nhưng khóc thương dẫn tới đôi mắt ông bị mù. Qua đây có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo mênh mông của Nguyễn Đình Chiểu, tuy bị mù những trái tim nhân đạo chính là đôi mắt sáng của các sáng tác của ông. Sau đó ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng với nhân dân, chính vì thế ông đã có những tình cảm sâu nặng và tha thiết gắn bó với đời sống của những người dân manh lệ, nên những trang văn, trang thơ của ông thấm đẫm ý thức nhân văn, nhân đạo cao cả bằng việc ngợi ca và trân trọng sức mạnh của người nông dân và xót thương cho sự hi sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì lúc giặc Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ ko hợp tác, rầu rĩ đau ốm ông đã từ trần.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều ngập tràn một tấm lòng yêu nước tha thiết, bỏng cháy gắn với những niềm căm thù về cơ chế cũ. Ông là thi sĩ có quan niệm văn học nhất quán. Ông chủ trương dùng văn học biểu thị đạo lý và tranh đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bình, rành mạch, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim táo tác bay.”
Những câu thơ ngập tràn một sự xót xa thâm thúy tới quặn thắt cho số phận của những người thường dân tội nghiệp. Đồng thời bộc bạch lòng căm thù xót xa với quân địch xâm lược đã giày xéo lên mảnh đất của dân tộc. nhưng cao hơn cả tấm lòng nhân đạo, là một sự khắc khoải khôn nguôi:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để thường dân mắc nạn này?”
Ko chỉ vậy, qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ông còn bộc bạch quan niệm của mình về những đạo lí tốt đẹp của dân tộc: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình mến thương, nuôi nấng, đùm bọc những người gặp trắc trở, thiến nạn. Đề cao ý thức nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Trình bày khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bình và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Các ý kiến này đã được trình bày rất rõ trong các truyện như Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu rất khổng lồ. nhưng có thể thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nổi trội một số nét sau: Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng tiếng nói nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, làm cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Ông là thi sĩ trước tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người người hùng Nam Bộ tiền phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ thủ cựu. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng đó mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của tổ quốc, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn học sử thi mới sau này.
Tương tự có thể thấy được rằng, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân. Ông ko chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, người chiến sĩ yêu nước nhưng còn là một cây bút có công lớn trong việc viết văn tuyên truyền động viên tranh đấu.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Ông là một con người tiêu biểu cho tư cách Việt Nam trong thời kỳ tổ quốc đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng lớn lao. Tổ quốc bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bị thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thử thách nghiệt ngã đó đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy thật phu hữu trách”, và ông đã chọn trục đường sống, tranh đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”.
Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đặm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân ko màng lợi danh. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, ko hám lợi, ko sợ uy vũ, ko khuất phục cường quyền.
Với tất cả vai trò xã hội và sứ mệnh của con người nhưng Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Thi sĩ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước cho tới cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng tới tuyệt vời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Tư cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người đó ko vì thế nhưng buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là tư cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Thi sĩ mù lòa đó là một trong những người trước tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.
Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và phá hủy một cách man rợ những di sản văn hóa của nhân dân ta:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Trong hoàn cảnh tổ quốc lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng quân địch, phản bội tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn ươn hèn và phản văn hóa đó:
“Dù đui mù nhưng giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha ko thờ.
Dù đui mù nhưng khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
Với ý kiến xem ngòi bút là vũ khí tranh đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn học như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm xáo trộn trắng đen. Cụ viết:
“Thây nay cũng nhóm văn học
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”.
Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống vững bền trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật người hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách người hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bình xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” đó được trình bày qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp tới nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời kì khá dài từ đầu thế kỷ XX tới nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga sớm trình bày trên sân khấu ca kịch cải lương lúc bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện. Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào nhưng tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức vạn thọ bền trong đời sống văn hóa của nhân dân tương tự.
Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều mấu chốt của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và tư cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết nhưng được truyền thụ tới ngày nay, trong đó thi sĩ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, ko màng lợi danh, suốt đời chăm lo tập huấn thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Từ lò tập huấn Hòa Hưng của Võ Trường Toản nhưng thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước tới thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là thành phầm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi tới mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình.
Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện ý thức để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” nhưng sinh tiền cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX tới các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy tâm huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu.
Tư cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có tác động rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất người hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật người hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói tới truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau này những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa đó.
Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu thâm thúy y lý phương Đông và y lý Việt Nam cả về y thuật và y đức nhưng y đức của cụ chính là đạo cứu người trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là quyển “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, một quyển sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và mến thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”
Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật đó là kết tinh nghề thuốc trong hàng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước đó có chiều sâu tư nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy nghìn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một trục đường thích hợp cho những con người yêu nước tầm thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết ko phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, nhưng chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất thân thiện với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn xin cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho ko”.
Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui mù đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để ko phải đem nghề y ra phục vụ cho quân địch của Tổ quốc và nhân dân. Tư cách cao thượng đó của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn thâm thúy trong các thế hệ lương y sau này. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục tiêu từ thiện chớ ko phải chỉ có kinh doanh trên sự cực khổ của đồng bào.
Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học ko biết mỏi mệt vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ ko chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ.
Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và tăng trưởng. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và thông minh văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một tư cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân.
Xem thêm: Tác giả – Tác phẩm: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Hoàn cảnh sáng tác, Tóm tắt, Ý nghĩa, Trị giá nghệ thuật)
…/…
Từ bài văn mẫu Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nhưng Trường THPT Trần Hưng Đạo đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng tri thức đã học, liên kết với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 12 hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
[rule_2_plain]
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
[rule_2_plain]
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
[rule_3_plain]
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
Xem nhanh nội dung1 Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu2 Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 13 Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 24 Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Dàn ý Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
1. Mở bài
– Giới thiệu đề tài nghị luận: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Nêu cảm tưởng chung nhất của bản thân.
2. Thân bài
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
a. Một số nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:
– Sinh năm 1822 mất 1888.
– Quê quán: Gia Định (nay thuộc Hồ Chí Minh)
– 1833, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ăn học.
– Năm 1849, mẹ ông mất, về lại Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị ốm nặng và vì quá tiếc thương cho mẹ nên bị mù cả hai mắt. Từ đó ông chuyển sang học nghề thuốc.
– Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc.
b. Sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu:
– Cuộc đời đã tác động sâu rộng tới sáng tác Nguyễn Đình Chiểu.
– Quan niệm thơ văn:
+ Ông coi văn học là vũ khí tranh đấu.
+ Ông đề cao và ca tụng những người nông dân, nghĩa sĩ.
+ Phê phán xã hội phong kiến.
+ Đau xót cho và tự hào cho sự hi sinh của người nghĩa sĩ quả cảm.
– Các tác phẩm chính: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Truyện Lục Vân Tiên…
c. Trị giá thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang lại:
– Ông đã để lại một khối lượng kho tàng văn học đồ sổ.
– Kim chỉ nam cho quan niệm: văn học là vũ khí đánh giặc.
– Các sáng tác phong phú, ca tụng người nông dân yêu nước, sự hi sinh của họ.
– Niềm tự hào và tình yêu với con người, quê hương, tổ quốc.
3. Kết bài: Nêu xúc cảm của em về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
>> Dàn ý phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 1
(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có thi sĩ nào vừa tài năng vừa đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một thi sĩ lớn của dân tộc ta với những áng văn học bất hủ mang đậm trị giá văn học Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu (hay được gọi là cụ Đồ Chiểu) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định và mất vào năm 1888. Tuy là một thi sĩ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời ông lại lắm những gian truân, long đong xuôi ngược. Là con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ nên từ nhỏ cuộc sống của ông đã khốn cùng, vất vả. Năm lên 11, lúc Nam Kì bị chiếm, cha gửi ông ra Huế ở nhờ nhà người bạn. Sau 8 năm, theo học tại nơi đây, ông trở lại miền Nam chăm lo đèn sách chờ ngày thi hương. Năm 1843, ông đỗ tú tài lúc đó ông mới 21 tuổi. Năm 1846,ông lại trở lại Huế ôn thi hội. Ba năm sau đó, vừa đúng lúc ngày thi kề cận thì cũng là lúc ông thu được tin mẹ mình từ trần. Ông tức tốc về Nam chịu tang mẹ, bỏ lỡ dang việc thi cử. Trên đường về quê, ông bị ốm. Vì đường xá xa xôi, tiết trời oi bức, bệnh ông càng trở nặng, lại thêm nỗi đau vừa mất mẹ, thương khóc quá nhiều nên chẳng may ông bị mù cả hai mắt. Thế là giấc mộng công danh đã ko thành, thân lại còn mang khuyết thiếu. Những tưởng tương lai, cuộc đời ông tới đây là chấm hết, cánh cửa cuộc đời như khép lại. Thế nhưng, ông quyết ko đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của bản thân, ông đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian nan biến đau thương thành động lực tiếp tục phấn đấu, vươn lên làm chủ số phận mình. Sau đó, ông về Gia Định vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người dân.
Cuộc đời ông là một tấm gương sáng ngời về ý thức yêu nước, sự quật cường trước quân thù. Tuy ko nhìn thấy ánh sáng, ko thể trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường nhưng ông vẫn luôn thảo luận việc nước với Đốc binh và trao đổi thư tín với Trương Định. Lúc tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn trao đổi với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác những bài thơ phục vụ cho kháng chiến, động viên ý thức tranh đấu của các anh chiến sĩ quân nhân ngoài sa trường. Mặc dù, nhiều lần ông bị bọn thực dân Pháp dụ dỗ sắm chuộc nhưng ông vẫn luôn cự tuyệt và tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến.
Trước lúc ra đi, ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm nổi trội, mang đậm tư tưởng đạo lí, bản sắc văn hóa dân tộc. Các tác phẩm tiêu biểu như là: “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,… đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày hôm nay. Đặc thù nhất là tác phẩm “Lục Vân Tiên” là một tuyệt tác đã để lại nhiều ấn tượng cho người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy truân chuyên, sóng gió của chàng Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ngoài đời thực. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật từ chính tới phụ, phản diện hay chính diện trong truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, manh những màu sắc rất riêng lẻ và nhiều chủng loại. Các tác phẩm của ông đều truyền tới cho đọc giả những trị giá đạo đức, đạo lí làm người trong cuộc sống.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ luôn là một thi sĩ lớn của dân tộc ta và những áng thơ của ông luôn mang một tầm tác động nhất mực tới người dân Việt. Ông và những tuyệt tác của ông sẽ luôn sống mãi với thời kì trong trái tim mỗi người Việt Nam.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 2
Có nhẽ người nào người nào trong chúng ta cũng đều từng nghe câu nói:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền ko khẳm
Đâm mấy thắng gian bút chẳng tà.”
Vâng đó chính là quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu-một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học khổng lồ của ông đã để lại dấu ấn và những bài học thâm thúy cho mai hậu.
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ(1882-1888). Ông sinh tại quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm 1833 ông được cha đưa ra Huế học, nhờ đó ông đã có điều kiện tiếp thu một cách bài bản tri thức. Tới năm 1849 ông sẵn sàng ra thi tiếp tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về vì quê tiếc thương người mẹ quá cố nhưng khóc thương dẫn tới đôi mắt ông bị mù. Qua đây có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo mênh mông của Nguyễn Đình Chiểu, tuy bị mù những trái tim nhân đạo chính là đôi mắt sáng của các sáng tác của ông. Sau đó ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng với nhân dân, chính vì thế ông đã có những tình cảm sâu nặng và tha thiết gắn bó với đời sống của những người dân manh lệ, nên những trang văn, trang thơ của ông thấm đẫm ý thức nhân văn, nhân đạo cao cả bằng việc ngợi ca và trân trọng sức mạnh của người nông dân và xót thương cho sự hi sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì lúc giặc Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ ko hợp tác, rầu rĩ đau ốm ông đã từ trần.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều ngập tràn một tấm lòng yêu nước tha thiết, bỏng cháy gắn với những niềm căm thù về cơ chế cũ. Ông là thi sĩ có quan niệm văn học nhất quán. Ông chủ trương dùng văn học biểu thị đạo lý và tranh đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để “chở đạo, sửa đời và dạy người”. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bình, rành mạch, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim táo tác bay.”
Những câu thơ ngập tràn một sự xót xa thâm thúy tới quặn thắt cho số phận của những người thường dân tội nghiệp. Đồng thời bộc bạch lòng căm thù xót xa với quân địch xâm lược đã giày xéo lên mảnh đất của dân tộc. nhưng cao hơn cả tấm lòng nhân đạo, là một sự khắc khoải khôn nguôi:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để thường dân mắc nạn này?”
Ko chỉ vậy, qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ông còn bộc bạch quan niệm của mình về những đạo lí tốt đẹp của dân tộc: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình mến thương, nuôi nấng, đùm bọc những người gặp trắc trở, thiến nạn. Đề cao ý thức nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Trình bày khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bình và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Các ý kiến này đã được trình bày rất rõ trong các truyện như Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu rất khổng lồ. nhưng có thể thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nổi trội một số nét sau: Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng tiếng nói nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, làm cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Ông là thi sĩ trước tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người người hùng Nam Bộ tiền phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ thủ cựu. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng đó mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của tổ quốc, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn học sử thi mới sau này.
Tương tự có thể thấy được rằng, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân. Ông ko chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, người chiến sĩ yêu nước nhưng còn là một cây bút có công lớn trong việc viết văn tuyên truyền động viên tranh đấu.
Cảm nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài mẫu 3
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam.
Ông là một con người tiêu biểu cho tư cách Việt Nam trong thời kỳ tổ quốc đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng lớn lao. Tổ quốc bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bị thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thử thách nghiệt ngã đó đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy thật phu hữu trách”, và ông đã chọn trục đường sống, tranh đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”.
Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đặm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân ko màng lợi danh. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, ko hám lợi, ko sợ uy vũ, ko khuất phục cường quyền.
Với tất cả vai trò xã hội và sứ mệnh của con người nhưng Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Thi sĩ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước cho tới cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng tới tuyệt vời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Tư cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người đó ko vì thế nhưng buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là tư cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cương vị của một thi sĩ, cái thâm thúy, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà sáng tỏ, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Thi sĩ mù lòa đó là một trong những người trước tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”.
Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và phá hủy một cách man rợ những di sản văn hóa của nhân dân ta:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Trong hoàn cảnh tổ quốc lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng quân địch, phản bội tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn ươn hèn và phản văn hóa đó:
“Dù đui mù nhưng giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha ko thờ.
Dù đui mù nhưng khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
Với ý kiến xem ngòi bút là vũ khí tranh đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn học như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm xáo trộn trắng đen. Cụ viết:
“Thây nay cũng nhóm văn học
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”.
Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống vững bền trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật người hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách người hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bình xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” đó được trình bày qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp tới nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời kì khá dài từ đầu thế kỷ XX tới nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga sớm trình bày trên sân khấu ca kịch cải lương lúc bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện. Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào nhưng tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức vạn thọ bền trong đời sống văn hóa của nhân dân tương tự.
Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều mấu chốt của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và tư cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết nhưng được truyền thụ tới ngày nay, trong đó thi sĩ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, ko màng lợi danh, suốt đời chăm lo tập huấn thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Từ lò tập huấn Hòa Hưng của Võ Trường Toản nhưng thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước tới thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là thành phầm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi tới mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình.
Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện ý thức để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” nhưng sinh tiền cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX tới các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy tâm huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu.
Tư cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có tác động rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất người hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật người hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói tới truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau này những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa đó.
Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu thâm thúy y lý phương Đông và y lý Việt Nam cả về y thuật và y đức nhưng y đức của cụ chính là đạo cứu người trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là quyển “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, một quyển sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và mến thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”
Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật đó là kết tinh nghề thuốc trong hàng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước đó có chiều sâu tư nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy nghìn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một trục đường thích hợp cho những con người yêu nước tầm thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết ko phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, nhưng chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất thân thiện với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn xin cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho ko”.
Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui mù đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để ko phải đem nghề y ra phục vụ cho quân địch của Tổ quốc và nhân dân. Tư cách cao thượng đó của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn thâm thúy trong các thế hệ lương y sau này. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục tiêu từ thiện chớ ko phải chỉ có kinh doanh trên sự cực khổ của đồng bào.
Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học ko biết mỏi mệt vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ ko chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ.
Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và tăng trưởng. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và thông minh văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một tư cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân.
Xem thêm: Tác giả – Tác phẩm: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Hoàn cảnh sáng tác, Tóm tắt, Ý nghĩa, Trị giá nghệ thuật)
…/…
Từ bài văn mẫu Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nhưng Trường THPT Trần Hưng Đạo đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng tri thức đã học, liên kết với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, chúng tôi thường xuyên cập nhật những bài văn mẫu lớp 12 hay nhất phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học vui và học tốt!
Đăng bởi: Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12
[/toggle]
Bạn thấy bài viết Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
(hay nhất) bên dưới để Trường THPT Trần Hưng Đạo có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo
Phân mục: Giáo dục
#Cảm #nhận #về #cuộc #đời #và #thơ #văn #Nguyễn #Đình #Chiểu #hay #nhất
Trả lời